Báo Tuổi Trẻ ca ngợi CT Nước: Vài câu chuyện nhỏ về Chủ tịch nước

16:37 |
Trong cuộc tiếp xúc cử tri dịp cuối năm, người đứng đầu Nhà nước đã “bình chọn” một câu nói đáng lưu tâm. Đó là câu nói của một người dân bình thường nhắn gửi lên Trung ương: “Các vị làm gì đều không qua được tai mắt nhân dân”.

Người kể với chúng tôi về bình chọn của Chủ tịch nước là ông Phạm Đình Toàn, nguyên phó giám đốc Bảo tàng Tôn Đức Thắng, một cử tri quận 4, TP.HCM.

Có dịp may mắn được gặp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng tôi đã nghe ông chia sẻ kỹ hơn về sự “bình chọn” đó. Chủ tịch nước nói: “Dù đây không phải là một câu nói nổi tiếng, dù nghe rất mộc mạc nhưng mà thật thấm thía, sâu sắc. Những người công bộc của dân phải luôn nhớ đến câu nói này để tự răn mình, để thường xuyên tự rèn luyện, tự sửa chữa theo lời Bác Hồ dặn là như rửa mặt hằng ngày...”.

Hôm ấy, Chủ tịch nước nói nhiều về những điều Bác dạy và về tư tưởng “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay, phải thực sự phát huy dân chủ và dựa vào dân để nhân dân góp ý kiến với Đảng của mình; nhân dân là “tai mắt” giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng trong thực tiễn cuộc sống.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp xúc cử tri TP.HCM tháng 12-2012 - Ảnh: Minh Đức
Chủ tịch nước kể về lần gặp các vị lão thành cách mạng ở nơi có chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Đức Hòa, tỉnh Long An), cũng như nhiều cuộc tiếp xúc ở những nơi khác nữa, một trong những vấn đề mà các vị lão thành quan tâm nhất chính là việc chỉnh đốn Đảng theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và khẳng định: “Đây cũng là sự quan tâm chung của toàn Đảng, toàn dân hiện nay. Kỳ vọng của nhân dân là rất lớn. Chúng ta quyết phải thực hiện thành công”.

Một câu chuyện nhỏ khác mà chúng tôi là những người chứng kiến trực tiếp. Trong dịp về thăm và làm việc tại tỉnh Thái Nguyên, sau khi dâng hương Chủ tịch Hồ Chí Minh tại nhà tưởng niệm Bác ở Đèo De (xã Phú Đình, huyện Định Hóa), Chủ tịch nước dành thời gian ngoài chương trình để gặp gỡ người dân địa phương, dừng chân hồi lâu để trò chuyện với một cụ bà đang ngồi ven đường bán những món quà quê như cơm lam, bánh nếp và nghe cụ kể lại “thời kháng chiến đồng bào thường lấy cơm lam tặng bộ đội ăn thay lương khô”.

Vui chuyện, Chủ tịch nước đọc cho mọi người nghe hai câu thơ của Tố Hữu: Mười lăm năm ấy ai quên, quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa. Khi trao tận tay Chủ tịch nước món quà quê nổi tiếng của vùng an toàn khu Định Hóa, bà cụ nói giản dị “mong trung ương mạnh khỏe để làm được nhiều việc hơn cho dân”.

Về sau này, chúng tôi đã phỏng vấn Chủ tịch nước rằng: “Mỗi lần gặp gỡ, tiếp xúc với các tầng lớp nhân dân như ở Thái Nguyên, ở TP.HCM..., Chủ tịch cảm nhận lòng dân từ cơ sở hiện như thế nào?”. Chủ tịch nước ưu tư: “Không chỉ bây giờ mà hơn 80 năm nay, nhân dân ta luôn gắn bó với Đảng, với Bác Hồ, với chế độ này, kể cả những lúc khó khăn nhất. Chúng ta còn nhiều hạn chế, yếu kém, khuyết điểm gây bức xúc cho người dân, “mắc nợ” với nhân dân nhiều quá.

Gặp gỡ các cụ già, các em nhỏ, tiếp xúc với các giai tầng xã hội khác nhau, lắng nghe bà con, tôi càng cảm nhận rõ điều đó. Nhân dân kỳ vọng và tin vào Đảng, Nhà nước, bà con gặp mình vui vẻ động viên “cố gắng”, làm mình càng thấy rõ trách nhiệm nặng nề hơn. Chưa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân thấy khó ngủ lắm. Chức vụ càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Đất nước hôm nay còn nhiều mặt chưa bằng các nước xung quanh, một bộ phận nhân dân còn rất nghèo khổ và còn biết bao công việc bộn bề đang ở phía trước”.

“Dân thấy ông Chủ tịch nói chuyện thiệt tình”

Từng dự rất nhiều cuộc tiếp xúc cử tri của Chủ tịch nước, ông Phạm Đình Toàn nhận xét: “Mỗi lần gặp ông Chủ tịch, tui thấy còn dễ ăn dễ nói hơn gặp một số cán bộ khác ở cấp dưới”. Dịp về thăm khu phố ở phường 5, quận 3 (TP.HCM) trong ngày hội Đại đoàn kết, Chủ tịch nước nói với bà con: “Tuy có bài phát biểu chuẩn bị trước nhưng đến đây, tôi thấy nó không thích hợp trước những tâm sự, trao trút của cô, bác, anh, chị, tôi xin có mấy lời thế này...”.

Lắng nghe bà con nói, ông ghi chép kỹ càng, trả lời tất cả ý kiến cử tri, không sót một ai. Bà con ở quận 4 đã có lần chứng kiến Chủ tịch nước ngồi lại đến trưa để trả lời bằng hết 25 kiến nghị của 16 người dân ông đã lắng nghe suốt mấy giờ trước đó. Bà Nguyễn Thị Liễu - một cử tri ở phường 8, quận 4 - thiệt thà: “Ông ở cấp cao vậy, nhưng chuyện nhỏ xíu ông đã hứa là giữ lời, chớ không trả lời cho qua chuyện”. Bà Liễu cứ nhắc miết việc sau khi kiến nghị với Chủ tịch nước tại kỳ tiếp xúc cử tri cuối năm 2011, ngôi nhà rách nát chật chội của bà đã được địa phương cấp phép sửa chữa khang trang sau gần 20 năm vướng quy hoạch.

Ông Toàn rất ấn tượng cách đối thoại thẳng thắn của Chủ tịch nước khi có cử tri đặt câu hỏi: “Vì sao đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo mà chỉ thấy mỗi người phát ngôn lên tiếng?”. Câu hỏi ấy được Chủ tịch nước chọn trả lời đầu tiên, thông tin đầy đủ cho cử tri những công việc quan trọng mà Đảng, Nhà nước đã làm, đang làm và tiếp tục làm kể cả về ngoại giao, về việc không ngừng củng cố tiềm lực quốc phòng đủ để tự vệ, rồi cả về xây dựng luật pháp cũng như hành động trên thực địa để giữ vững chủ quyền biển đảo.

Chủ tịch nước khẳng định: “Một mình Bộ Ngoại giao không làm được, một mình người phát ngôn lên tiếng càng không phải. Chúng ta vẫn tiếp tục công cuộc phát triển kinh tế trên biển Đông. Không chỉ dầu khí mà còn thủy sản, du lịch, hợp tác quốc tế nghiên cứu biển...”. Sự thẳng thắn ấy của Chủ tịch nước không làm cho buổi tiếp xúc cử tri căng thẳng mà trái lại, như ông Phạm Đình Toàn nói: “Dân quận 4 thấy ông Chủ tịch nói chuyện thiệt tình nên ưng bụng, cảm thấy thuyết phục”.

Bồi đắp niềm tin

Nhiều dịp được tháp tùng Chủ tịch nước công tác nước ngoài, chúng tôi hiểu rõ hơn chủ trương giải quyết vấn đề biển Đông “bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế” của Đảng và Nhà nước ta. Quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, đơn phương đặt mình ra khỏi luật pháp quốc tế và có những hành động vũ lực sẽ bị cộng đồng quốc tế lên án.

Trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Brunei và Myanmar cuối năm 2012, bên cạnh nhiều nội dung quan trọng về ngoại giao, kinh tế, văn hóa..., các nhà lãnh đạo hai bên đều khẳng định tầm quan trọng của hòa bình, ổn định và tin cậy lẫn nhau tại biển Đông. Lãnh đạo hai nước Brunei và Myanmar, trong hội đàm với Chủ tịch nước ta, đều nhắc lại những kỷ niệm hết sức sâu sắc với Việt Nam.

Quốc vương Brunei mô tả lại cảm xúc của mình khi quốc kỳ của Việt Nam được kéo lên tại Brunei vào thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN năm 1995. Tổng thống Myanmar thì nhiều lần nhắc đến tình cảm của ông trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 3-2012 khi ông tận mắt chứng kiến những thành quả đổi mới của Việt Nam. Với sự tin tưởng chỉ có ở những người bạn, ông đề nghị: “Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm với Myanmar trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế”.

Chủ tịch nước cho biết: “Những chuyến thăm cấp cao như thế này là dịp để củng cố và tăng cường lòng tin chính trị. Xuất phát điểm đầu tiên là lòng tin, cá nhân với cá nhân là lòng tin, tập thể với tập thể cũng là lòng tin, giữa quốc gia này với quốc gia khác hay trong khu vực cũng là lòng tin”.

Cộng đồng ASEAN trong những năm tới, muốn đánh dấu một bước ngoặt về chất trong lịch sử phát triển của mình, cũng phải bằng lòng tin. Hơn bao giờ hết, để đi đến mục tiêu mà các nước trong khu vực đang kỳ vọng trở thành hiện thực, đòi hỏi phải có một nền tảng là sự tin cậy, đoàn kết, sự thống nhất trong đa dạng và phối hợp tốt với nhau vì mục đích chung. Đây là điều hết sức quan trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch nước nhấn mạnh đến “điều hết sức quan trọng” nêu trên. Một nhà lãnh đạo khác trong ASEAN, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long khi phát biểu tại Trường Đảng Trung Quốc trong chuyến thăm nước này, cũng đã cho rằng ASEAN cần phải đoàn kết và thống nhất để tránh tình trạng chia rẽ, tránh việc các thành viên bị buộc phải chọn theo một cường quốc nào đó. Bằng không, Đông Nam Á sẽ trở thành đấu trường mà chẳng ai chiến thắng cả.

Vào ngày cuối cùng trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Brunei và Myanmar, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh biểu thị niềm vui khi chia sẻ với cánh báo chí tháp tùng về những kết quả của chuyến thăm, cũng đặc biệt nhấn mạnh: “Qua chuyến thăm lần này, có thể thấy rõ quan điểm gần gũi giữa ta và Brunei cũng như Myanmar trong các vấn đề khu vực và quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ ASEAN. Đây là các cơ sở thuận lợi để Việt Nam phối hợp chặt chẽ với hai nước khi bạn đảm nhận cương vị chủ tịch ASEAN lần lượt trong các năm 2013 và 2014”.

Những kết quả như Bộ trưởng Phạm Bình Minh vừa nhắc đến chỉ là một phần trong các hoạt động đối ngoại sôi động nối tiếp nhau. Trong năm qua, nước ta đã đón không dưới 30 đoàn cấp cao được các vị nguyên thủ, lãnh đạo quốc hội, lãnh đạo chính phủ các nước dẫn đầu đến thăm. Chủ tịch nước rất phấn khởi khi nói về điều này và tâm sự: “Điều đó cho thấy bạn bè thế giới ngày càng quan tâm và đến với Việt Nam nhiều hơn”.

Chẳng phải người xưa đã nói “đường nhiều bạn dễ đi hơn”.  

(Tuổi trẻ Xuân)

Lê Thăng Long - Về một con người trong tù: Trần Huỳnh Duy Thức

03:05 |
Ô. Trần Huỳnh Duy Thức
Lê Công Định đã về. Niềm vui sắp được gặp lại bạn tràn ngập. Những điều tốt đẹp đang mở ra. Nhưng nhớ đến một người bạn khác vẫn còn trong vòng lao lý mà chạnh lòng. Có lẽ thời điểm mà những người xa nhà khắc khoải nhất là Tết. Đã trải qua 3 cái Tết trong tù tôi hiểu rõ cảm giác đó. Những người ở ngoài nhưng phải xa quê hương vào những ngày Tết còn không tránh được nỗi nhớ nhà. Những người phải vào tù vì tình yêu quê hương thì bị chia cắt với gia đình vào những thời khắc xum vầy thiêng liêng là một nỗi đau với họ.

Phân trại 1 trại giam Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai nằm lọt trong một vùng rừng núi xa khu dân cư. Ở đó suốt ngày không nghe được tiếng xe cộ. Thỉnh thoảng tiếng xe lửa vọng từ xa xình xịch là thứ âm thanh duy nhất mang đến cảm giác ngoài đời. Ngày đầu tiên đến trại giam này gợi lại cho chúng tôi mọi ký ức thời chiến tranh, bao cấp và hợp tác hóa nông nghiệp. Năm giờ sáng hồi kẻng thứ nhất đánh thức mọi người dậy, chỉ có 30 phút cho một buồng giam từ 50 đến 80 người phải xong việc vệ sinh cá nhân. Năm giờ ba mươi hồi kẻng thứ hai báo hiệu cho mọi người phải xuất buồng điểm danh. Sáu giờ đến sáu giờ ba mươi sáng là thời gian xuất trại cho những ai phải đi ra xưởng lao động. Đó cũng là lúc mà loa phóng thanh đọc thành tích thi đua lao động của ngày hôm trước rồi tiếp theo là những tiêu chuẩn cho nếp sống văn minh mới trong trại giam. Mỗi tuần vào sáng thứ hai, các tù nhân còn phải tập trung vào hội trường ngồi xổm dưới đất nghe giáo huấn đạo đức. Có lúc còn được phát động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Kết quả là mọi người phải làm một bản thu hoạch bằng việc chép lại mẫu có sẵn. Hôm nào có tù nhân vi phạm nội quy trại giam và bị xử lý kỷ luật thì sẽ bị đọc tên công khai trên loa phóng thanh. Lâu lâu có tiếng bom mìn khai thác đá ở đâu đó gần đấy vang rền và chấn động cả khu vực trại giam, tạo ra cảm giác không khác gì đang sống trong vùng khói lửa. Chưa kể giữa đêm nghe hàng loạt tiếng đạn xé không khí tĩnh lặng mà cứ ngỡ như đang bị bố ráp. Mãi sau này mới biết được mỗi khi nghe tiếng súng như vậy là có đơn vị nào đó bên ngoài về để kiểm tra đột xuất “quân số”.

Ngoại trừ những âm thanh nói trên, còn lại là một không gian tĩnh lặng ban ngày và u tịch về đêm. Nếu không có những bức tường cao với hàng rào thép gai thì nơi đó là một khung cảnh đẹp. Trong khu cách ly chỗ chúng tôi ở, do không bao giờ bị chúng tôi bẫy nên chim muông về rất nhiều. Trong khu này có 5 cây xoài đã cho quả, là nơi của bầy se sẻ thường về tụ tập để ăn những hạt cơm chúng tôi rải cho chúng. Hướng Nam sừng sững một quả núi Gia Lào. Trên đỉnh núi có một ngôi chùa cùng tên, tương truyền là rất linh thiêng nên có nhiều khách thập phương thăm viếng. Vào mỗi chiều từng đàn chim vỗ cánh bay về ngọn núi. Có lẽ đó là nơi nghỉ đêm của chúng. Có nhiều loài chim nhưng nhiều nhất là quạ. Hồi nhỏ mọi người hay nói rằng nghe tiếng quạ kêu là có người chết. Còn bây giờ ở đây thì quạ kêu thường xuyên và thỉnh thoảng thì nghe tin có người tù qua đời. Cũng không hiếm trường hợp không có thân nhân nhận xác về nên họ đem chôn ở khu nghĩa địa của trại giam. Nhiều năm trước nghe nói đó là một khu hoang tàn nhưng từ lúc ông Nhâm về làm giám thị thì đã cho xây dựng lại, đắp xi măng các ngôi mộ và dựng bia nên khang trang hơn nhiều. Ông Nhâm cũng là người được các tù nhân ở đó quí mến vì đã áp dụng những chính sách thoáng hơn nhiều thời của giám thị trước đó - bị gọi là thời phát xít. Nhưng lúc tôi còn ở đó thì ông Nhâm đã bị đình chỉ công tác vì những chính sách như vậy bị cho là gây ra sai phạm. Sau đó ông ấy bị chuyển đi nơi khác.

Cứ mỗi khi nghe thấy có người chết thì tâm trạng chúng tôi lại bồi hồi thương tiếc cho những cảnh đời phải kết thúc trong tù. Một lần biết tin có một tù nhân chính trị qua đời ở khu trạm xá bên cạnh vì bệnh hoạn và thiếu thốn. Lòng cứ thắt lại. Biết được ông về đây chưa được 6 tháng, chưa một lần được gặp mặt và nói chuyện, thì giờ ông đã về nơi chín suối. Hơn một ngày sau nghe nói gia đình vẫn chưa thấy lên nhận xác về. Chúng tôi lâu nay vẫn tìm cách gửi đồ ăn, thuốc lá, thuốc bổ qua cho ông nhưng cũng không được nhiều vì bị kiểm soát gắt gao. Đến cái tên của ông mà cũng không biết được chính xác. Người thì nói Vạn, người thì nói Rạng. Ông bị kết án vì treo cờ, cờ gì chúng tôi cũng không rõ. Nhưng chắc chắn một điều là ông thuộc nhóm A – cách mà trại giam phân loại những người tù chính trị. Không biết có bao nhiêu thân phận đã đấu tranh và ra đi trong âm thầm lặng lẽ như vậy. Chắc cũng không ít.

Đêm về nơi đây thường rất lạnh. Đất Xuân Lộc này ban ngày nắng như đổ lửa nhưng đêm khuya thì trời lạnh và thường có gió lùa. Chăn ở đây phát cũng khá dầy nhưng có những đêm vẫn không đủ ấm, phải mặc thêm quần áo. Vào mùa mưa thì tiếng ếch nháy, ểnh ương kêu inh ỏi phá tan không gian u tịch. Mùa nắng thì côn trùng vo ve như một bản hòa tấu giữa trời đêm. Cũng có những lúc không hiểu lý do gì mà ban đêm hoàn toàn vắng lặng, không có cả tiếng lá cây xào xạt. Vào những đêm như vậy anh Thức thường không ngủ, nhìn ra cửa sổ qua song sắt nhà tù. Anh vốn vẫn ít ngủ lúc còn ở ngoài đời. Đêm khuya thường lên sân thượng ngắm trời và suy tư. Không gian chật hẹp trong phòng giam không ngăn được tâm hồn anh phóng ra khoảng trời rộng lớn. Thỉnh thoảng tôi vẫn bị anh đánh thức dậy giữa khuya để cùng ngắm một cảnh trăng đẹp, một ngôi sao lấp lánh sáng lạ thường hoặc để chia sẻ về một ý tưởng mới. Thức là người yêu thích thiên nhiên và hay chiêm ngưỡng, khám phá những điều kỳ diệu của chúng. Khi còn bị tạm giam ở B34, cửa sổ phòng giăng kín lưới mà anh vẫn nhìn ra được những vẻ đẹp của thiên nhiên ở ngoài. Giữa những bức tường giam thô ráp vô hồn, nhưng tình yêu thiên nhiên đã truyền cho anh cảm hứng nên những câu thơ tả cảnh:

Bồ đề xao nắng hoàng hôn đỏ
Mây tía trôi quyện chuông trời
Chim đàn đàn về nương lá Phật
Khúm núm kêu gợi nhớ chùa xa

Màn đêm trì kéo bình minh xuống
Vầng dương cố vượt núi mây đen
Mây lành đỏ rừng tàn sương tối
Sáng lạ vầng đông ló mặt trời.

Lúc mới về trại giam Xuân Lộc, ba chúng tôi bị đưa ngay xuống khu cách ly. Đây là khu vực thiếu sự chăm sóc và dọn dẹp lâu năm nên rất dơ bẩn hôi hám. Nó được dùng để làm nơi đổ rác, chất đống hàng năm trời, đầy ruồi nhặng, giòi nhung nhúc. Có một đường mương xây bằng xi măng để dẫn nước thoát từ khu trạm xá nhưng lâu ngày không ai khai thông nên trở thành môi trường lý tưởng cho muỗi và các mùi hôi thối sinh trưởng. Cỏ um tùm, dây leo dại bò tràn lan ra cả lối đi. Xác chuột chết rất nhiều, những con còn sống thì to bằng bắp chuối. Các bụi rậm là nơi ẩn mình lý tưởng của các loài rắn ráo, rắn ngũ hành. Nói thật là nhìn cảnh tượng đó không thể không có cảm giác rằng họ muốn để chúng tôi trong một môi trường ô nhiễm. Nhưng anh Thức nghĩ khác. Anh đề nghị họ để chúng tôi dọn dẹp làm sạch lại khu vực này. Không ngờ họ lại rất hoan nghênh ý tưởng đó nhanh chóng. Trong vòng gần 2 tháng chúng tôi vét mương, làm cỏ, tải núi rác ra thành từng cụm nhỏ phơi khô để đốt. Dù làm một công việc chưa bao giờ có kinh nghiệm nhưng Thức chỉ huy tiến hành nó theo một bản thiết kế hẳn hoi. Lúc đó chưa có giấy viết gì nhưng anh vẫn tính toán mọi thứ thật chi tiết, qui hoạch rõ ràng từng cụm trồng rau cải, trồng hoa và các loại dây lêo có trái như khổ qua, đậu rồng. Bùn dưới mương được vét lên đắp dọc hàng rào B40 để trồng các loại hoa dại dây leo nhiều màu sắc rực rỡ rất đẹp. Đó cũng là nơi để trồng rau dền cơm ăn rất ngon và bổ máu. Từ một rãnh mương hôi hám với đầy bọc ni lông, vỏ chai và các loại phế thải y tế chúng tôi biến nó thành một con kênh nhỏ, nước trong. Thế là tự nhiên nó trở thành nơi tắm mát của lũ chim.

Chỉ trong 3 tháng mà chúng tôi đã trồng được hơn 40 loại rau, củ, quả từ những cây mọc dại và hạt giống gia đình gửi vào. Ăn không thể nào hết, vừa gửi cho các anh em tù nhân khác, vừa gửi về cho gia đình. Gia đình chúng tôi đã rất vui khi ăn những sản phẩm đó - một niềm hạnh phúc thực sự. Các cán bộ trại giam khi muốn có rau sạch vẫn xuống xin một ít. Mà đúng là hoàn toàn sạch, đến cả phân hóa học cũng không dung tới. Khu vườn sân trước thì lúc về còn đầy gạch đá xà bần. Chúng tôi gom sạch rồi trồng hoa hồng, vạn thọ và một số loại cây cảnh, biến khu cách ly thành một không gian sống có thể hưởng thụ được. Mỗi sáng sau khi làm vườn xong, ngồi ngoài sân uống trà, cà phê ngắm hoa và chim chóc tắm mát hót líu lo là một sở thích chưa có được lúc ở ngoài đời.

Điều thú vị nữa là nấu ăn. Anh Thức chưa từng nấu ăn một lần ngoài đời, tôi thì càng mù tịt. Anh Định có biết đôi chút nhưng nấu không ngon. Nhìn 3 anh em sụt cân thảm hại sau thời gian tạm giam ở B34, Thức xung phong làm đầu bếp và tuyên bố: "Chúng ta phải hồi phục nhanh chóng". Lúc đó tôi và anh Định đều nghi ngờ vì lúc còn ở ngoài Thức rất không thích vào bếp. Nhưng tất cả đều bất ngờ sau đó. Lúc đầu thì anh chế biến những gì đang có thành những món chẳng có ngoài đời nhưng ăn rất ngon vì lạ miệng. Sau đó dần dần đến các món "chính qui" như phở, hủ tiếu Nam vang, cả mì Spagheti, v.v... Định là người sành ăn mà phải công nhận là ngon và giống khẩu vị chuẩn. Có một món rất ấn tượng mà Thức tự chế ra, chúng tôi đặt tên là mì gió Trần Đông Chấn. Mỗi khi muốn nấu một món gì mới Thức lại hỏi tôi và Định ráng nhớ lại nó có hương vị thế nào, phân tích xem nó gồm những gia vị gì. Rồi anh pha thử tới lui vài lần đến khi gần đạt thì bắt đầu nấu. Gia đình gửi cho khá nhiều nguyên liệu nhưng cũng không thể đủ được như ngoài đời. Nhưng Thức luôn chế ra được từ những cái có sẵn. Tôi đoan chắc rằng các bà vợ mà nhìn thấy cảnh tôi rửa rau, anh Định thái bắp cải, anh Thức đứng bếp, v.v... thì phải rất khoái chí. Hơn một tháng sau, trước khi anh Định về Chí Hòa thì đã hồng hào trở lại, lên ít nhất 5 kg. Còn tôi thì cứ tăng cân đều đặn, có lúc lên gần 80 kg, phải cố tập thể dục rất nhiều mới không bị chọc là béo. Anh Thức cũng phục hồi rất nhanh và trở nên rắn chắc. Tôi tin chắc rằng sau này về Thức có thể trở thành đầu bếp giỏi nếu muốn.

Đây là thời gian tôi học hỏi được nhiều nhất trong đời. Khi còn anh Định ở đây tôi được nghe rất nhiều về những kiến thức luật học, về triết học và cả quan hệ quốc tế. Cách ứng xử thâm thúy của anh cũng là điều phải có thời gian gần nhau liên tục mới học hỏi được. Với anh Thức thì cách thức giải quyết vấn đề một cách chiến lược cùng với kiến thức kinh tế, chính trị, xã hội sâu rộng của anh thì có thể học mãi mà không hết. Cũng nhờ hai người mà tôi tập tành làm thơ và cuối cùng cũng làm được.

Hơn một tháng trước khi ra tù, tôi được chuyển khỏi khu cách ly lên khu chung ở với các anh em tù hình sự. Ở đây tôi lại biết thêm một điều là nhiều anh em này rất quí mến anh Thức. Lý do rất đơn giản: "Nhờ các anh ở dưới đó mà tụi em ít bị no đòn", họ nói. Cạnh khu cách ly là khu kỷ luật để cùm và giam riêng những ai vi phạm nội quy trại giam. Muốn vào khu kỷ luật phải đi qua khu cách ly. Trong khu này có một phòng làm việc dành để tra hỏi những người vi phạm trước khi quyết định đưa vào khu kỷ luật. Thời gian đầu chúng tôi hay nghe những người tù khóc xin cán bộ đừng đánh khi bị tra hỏi. Khi có tra hỏi thì họ không cho chúng tôi đi về phía cuối dãy nhà chỗ có phòng làm việc.

Nhưng sau một vài lần nghe tiếng kêu la, anh Thức vẫn cứ bước tới. Thấy cảnh tượng đó anh bảo: "Các cán bộ không nên làm vậy. Luật không cho phép". Họ cũng ngại nên dừng tay rồi sau đó vào phòng chúng tôi giải thích rằng mấy tù nhân đó thường vi phạm và rất cứng đầu, gây mất an ninh trật tự trong trại. Thức bảo không thể vì mục đích đúng mà dùng phương pháp sai. Luật tố tụng hình sự nghiêm cấm không dược dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào. Sau lần đó chúng tôi không nghe thấy tiếng các tù nhân vi phạm nội quy bị đánh nữa. Cũng nói thêm rằng theo các anh em tù hình sự đã ở qua nhiều trại giam thì trại Xuân Lộc này tình trạng đánh đập tù nhân là ít hơn nhiều so với các trại khác.

Tết này đã là lần thứ tư Thức phải đón trong tù. Điều kiện sinh hoạt của anh 7 tháng nay đã không còn được như trước. Anh bị biệt giam suốt ngày trong một căn phòng nhỏ chỉ mở cửa vào lúc chia cơm. Không còn được làm vườn, nấu ăn, không cả sách báo tập viết. Một mình giữa 4 bức tường là một thách thức không nhỏ. Vừa rồi tôi nhận được tin là anh Phương, một người tù chính trị cũng ở phân trại 1 trại giam Xuân Lộc, cách đây một vài tháng bị chuyển từ khu chung xuống biệt giam ở khu cách ly giống anh Thức. Chưa đầy một tuần sau anh đã đập đầu tự tử vì quá bức bách. Nhưng cũng may anh được cấp cứu kịp thời. Thời gian ở khu chung trước khi về, tôi cũng quen biết anh Phương. Anh đã ở tù 12, 13 năm rồi, không có người thăm nuôi nên anh sống bằng cách giặt đồ thuê. Tính anh vui vẻ cởi mở nên được nhiều người thích. Án của anh hình như là 16 năm.

Thức là người luôn tìm được cách cân bằng tinh thần của mình trong mọi hoàn cảnh để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực, luôn tìm được nguồn an lạc từ trong cho dù xung quanh là những điều không thuận lợi. Thời tạm giam ở B34 còn khắc nghiệt hơn nhiều nhưng anh vẫn ra khỏi đó với một tinh thần tươi mới và những bài thơ thật hào khí và lãng mạn. Nên tôi tin rằng hiện giờ anh cũng không buồn. Tuy vậy vẫn không khỏi chạnh lòng vì biết anh đang rất nhớ nhà, nhớ những người thân thương, nhớ bạn bè và quê hương đang còn thổn thức. Giao thừa này tôi sẽ thức cùng bạn vì lúc đó bạn sẽ thả hồn theo đất nước để làm một bài thơ khai bút đầu xuân.

Mừng năm mới Quý Tỵ, nguyện ước cho tự do của anh và cũng nguyện làm hết sức mình để anh sớm trở về.

Lê Thăng Long
27 Tết Quý Tỵ 2013

* Bài do tác giả gửi tới TTHN

Tại sao Phạm Duy “dinh tê” về Hà Nội (tiếp theo)

16:35 |
NS Phạm Duy
CHƯƠNG 34

Một hôm Phạm Đình Viêm đang ngồi ở trong Quán Thăng Long thì có một cán bộ đi xe đạp từ đàng xa tới, đậu xe lại, bước vào quán và nói:

– Tôi có gặp một ông già cùng đi với một cô con gái ở cách đây bẩy tám cây số gì đó. Họ biết tôi sẽ qua Chợ Neo nên nhờ tôi nói dùm với ông bà chủ quán Thăng Long là họ đang trên con đường về.

Thế là Phạm Đình Viêm bôn bả cưỡi xe đạp đi đón chúng tôi. Nhưng không gặp. Chúng tôi về tới Quán Thăng Long thì chỉ thấy có một mình bà Thăng Long đang ngẩn ngơ đứng đó. Hai mẹ con ôm nhau khóc oà. Tôi ngạc nhiên vì không thấy ông Thăng Long đâu cả. Trong sáu tháng vừa qua, ở nhà ra đi lên sống ở Việt Bắc rồi là chúng tôi không có một tí liên lạc nào với gia đình ở Chợ Neo cả. Xin được thưa với tất cả các dân tộc ở trên thế giới rằng: trong những năm kháng chiến, 90 phần trăm người dân Việt thoát ly gia đình để đi làm nhiệm vụ công dân. Dù trong quân đội và các cơ quan dân chính có những tổ chức bưu điện được gọi là “hòm thư” (sau này mới có cái tên “khu bưu chính”, viết tắt là KBC) nhưng thư đi thư lại ở trong nước thật là ít ỏi. Tôi nhớ rất rõ ràng là trong bẩy năm kháng chiến, tôi không hề gửi đi hay nhận được một lá thư nào cả. Và tôi không phải là người độc nhất ở trong hoàn cảnh đó. Dân tộc này phải can đảm đến độ nào mới có thể chấp nhận một sự “biệt vô âm tín” lạ lùng giữa những người thân trong gia đình như vậy. Ông Thăng Long vào Hà Nội từ mấy tháng nay rồi. Chúng tôi đâu có biết? Gia đình này đã khánh kiệt. Bố vợ tôi phải vào thành phố để vay mượn tiền nơi bạn bè, đem ra vùng kháng chiến tiếp tế cho gia đình.

Phạm Đình Viêm phóng xe đi tìm vợ chồng tôi không thấy, quay xe trở về quán. Chúng tôi nhìn nhau cười như nắc nẻ. Anh cán bộ nói không sai: Tôi mới có 30 tuổi mà trông đúng là một ông già rồi. Sau khi cất ba lô, rửa mặt, thay quần áo, Thái Hằng chui ngay vào giường nằm. Tôi ra ngồi uống một ly cà phê, ăn một tô phở và hàn huyên, tâm sự cùng mẹ vợ và anh vợ…

“… Con đường về vất vả hơn con đường đi nhiều. Vượt khỏi được con dốc Tam Đảo là gặp những cơn mưa tầm tã. Hai vợ chồng ôm nhau đi trên những con đường bùn ngập tới cổ chân. Có những lúc Thái Hằng mệt quá, ngồi bệt xuống đường khóc. Tôi đi trước vài bước, thấy thế tôi quay gót lại, nâng vợ dậy, dìu đi và vừa đi vừa kể cho nghe những chuyện tiếu lâm của bố tôi là Thọ An, Phạm Duy Tốn. Chuyện rất tục và cái tục làm cho người nghe quên khổ, quên mệt trên đường dài. Tuy vậy, Thái Hằng vẫn còn lo lắng vì được ai đó nói cho biết rằng: có nhiều người mang thai đi công tác, vì đeo ba lô quá nặng và đi bộ quá nhiều cho nên đã đẻ non ở dọc đường. Nếu chuyện đó xẩy ra cho vợ tôi thì nguy to. Thấy vợ lo ngại nhiều quá, tôi lại phải luôn luôn nâng tinh thần vợ lên. Xách đỡ ba lô, vẽ ra niềm hạnh phúc khi đứa bé ra đời và… tiếp tục kể cho vợ nghe thêm những chuyện tiếu lâm khác. Có một hôm chúng tôi tới một nơi không có nhà trọ, tối đến phải ra nằm ngủ trên bờ suối, nửa đêm có mưa đổ xuống như trút nước, nước suối dâng cao, tôi phải đặt vợ với cái bụng chửa nằm lên trên ngực tôi để cho người đang có thai không bị dầm mình trong nước lạnh. Lại có một hôm tình cờ gặp một đoàn tù binh Pháp đang được dẫn đi ở giữa rừng, nằm ngủ cách đám tù binh Pháp không xa, suốt đêm phải nghe tiếng ho xù xụ của những tù binh — có lẽ đang mắc phải bệnh lao — chúng tôi mất ngủ luôn… “

Đó là câu chuyện “phiêu lưu” rất vắn tắt mà tôi kể cho mẹ vợ và anh vợ nghe trong ngày đầu tiên về tới Chợ Neo, với kết luận là chỉ có phép lạ mới cứu cho vợ tôi không bị xẩy thai mà thôi. Tôi nấn ná ở nhà vài hôm rồi mới đi gặp Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh. Lúc này tôi không còn là cán bộ văn nghệ của Trung Ương hay của Trung Đoàn hay Sư Đoàn nào cả mà chỉ là một “thường dân hạng nhì” đi thăm các người bạn bực đàn anh. Tôi tránh né không nói gì tới chuyện đã qua ở trên Việt Bắc. Rồi tôi về nhà, trong một tuần trăng, không làm gì cả, ngồi chờ vợ đẻ. Thái Hằng có mang đã tới tháng thứ tám. Được mẹ săn sóc kỹ lưỡng, có ngày được ăn tới ba bát phở (của thùng phở ế khách), vợ tôi đã béo tốt ra, cái bụng đã to phềnh lên. Chúng tôi lại được sống những ngày rất êm ả dưới mái nhà tranh bên dòng sông máng.
Ông Thăng Long từ Hà Nội trở ra Chợ Neo. Mừng mừng tủi tủi khi gặp lại bố vợ nhưng tôi buồn vô hạn khi ông Thăng Long cho biết mẹ tôi vừa qua đời trên một tháng nay tại Hà Nội và ông có đi dự đám tang. Mẹ tôi vĩnh biệt cuộc đời vào lúc chúng tôi đang sửa soạn từ giã khu rừng Yên Giã để về suôi. Bây giờ thì tôi nhớ lại rồi. Có một đêm, tôi đang đứng chơi ở trước ngôi nhà nứa trong khu rừng vắng thì nghe tiếng cú kêu. Bấm đốt ngón tay thì thấy đó là ngày mẹ tôi giã từ cuộc đời. Cái chết của mẹ tôi có thể làm cho tôi đau khổ rất lâu nếu chúng tôi không có một sự sống là đứa con đang sắp sửa ra đời. Vừa mất mẹ thì có con ngay. Nỗi buồn đang nằm đó được niềm vui bước tới che đi. Đời tôi quả là may mắn vì gặp được những sự bù đắp không ngừng. Ngày tôi lấy vợ, cách đây hơn một năm, tôi chỉ mong sao mẹ tôi biết được tin mừng nhưng tôi không có cách nào để đưa tin cho mẹ được.

Nay ông bố vợ về Hà Nội và gặp mẹ tôi trước khi mẹ tôi mất. Mẹ tôi đã biết tin tôi lấy vợ. Mẹ tôi nói: “Nó lấy được con gái ông bà là tốt lắm đấy.” Trong kháng chiến có biết bao nhiêu gia đình bặt tin nhau, cha mẹ chết đi, vài ba năm sau con cháu mới biết. Con cái thành vợ thành chồng, có cháu đầu lòng mà có khi cha mẹ không biết. Tôi tự an ủi là mình có phúc. Bố vợ còn đem ra cho tôi thêm một niềm an ủi khác nữa: một số bài hát kháng chiến của tôi được ấn hành ở trong thành. Một nhà xuất bản trao tiền tác giả cho mẹ tôi. Tôi coi đó là một sự báo hiếu của tôi, rất nhỏ nhoi nhưng rất cần thiết.

Mừng hơn nữa là bố vợ cũng mang ra cho tôi một số tiền tác giả của một nhà xuất bản khác. Tôi có đủ tiền để chi phí cho việc hộ sinh và việc nuôi đứa con đầu lòng nay mai, khỏi cần phải vay mượn hay nhờ vả chính quyền. Vả tới mãi bây giờ mới có thể sắm một cái nhẫn cưới cho vợ.

Mùa Đông năm 1950, vợ tôi đẻ. Nhà hộ sinh ở ngay bên kia bờ sông máng. Người đỡ đẻ là bà đỡ Ninh, từ Hà Nội tản cư ra đây, mang theo đầy đủ đồ nghề. Từ Việt Bắc, vợ tôi mang được cái bụng chửa về tới Chợ Neo để đẻ, đó là phúc bẩy mươi đời cho gia đình tôi vậy. Vì sao? Vì đẻ con so cho nên đẻ khó, phải có hai người dùng “forcep” mới gắp được đứa bé ra. Nếu đẻ ở dọc đường thì làm gì có bà đỡ Ninh và dụng cụ đỡ đẻ như bây giờ? Đứa bé không ra khỏi bụng mẹ được sẽ bị nghẹt thở, chết cả con lẫn mẹ. Và chắc gì tôi có thể sống nổi nếu chuyện đó xẩy ra? Đứa bé ra đời nặng 3 ký, được đặt tên là Quảng. Trong cái tên của vợ tôi, Phạm Thị Quang Thái, có chữ đệm là “Quang”. Ông bố vợ đề nghị nên lấy tên đệm của mẹ mà đặt tên cho con. Nhưng một trong các vị tổ tiên của tôi đã mang cái tên là Quang rồi. Cần phải “kiêng tên”, chúng tôi bèn cho thêm dấu hỏi vào tên đứa bé. Nhưng khi di cư vào miền Nam, phải làm lại giấy khai sinh cho đứa bé thì không hiểu tại sao cái dấu hỏi đó lại bị mất đi?

Tôi và Thái Hằng không còn là nhân viên của đoàn văn nghệ quân đội nữa. Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Băng Thanh (tức Thái Thanh) tuy vẫn còn là nghệ sĩ ở trong quân đội nhưng không phải đi công tác luôn luôn như ngày trước. Họ ở nhà nhiều hơn là ở trong cơ quan. Cũng như bất cứ một người cha nào, tôi vui thú với đứa con trai đầu lòng, ngày đêm ôm ấp nó. Cả gia đình cũng đều vui vì đây là lần đầu tiên có trẻ thơ ở trong nhà. Mọi người tranh nhau bế thằng nhỏ. Đứa bé vừa ra chào đời là nhận được đầy đủ mọi thứ tình yêu đến từ ông bà, cha mẹ, bác, cậu và gì… Trong khi đất nước vẫn còn trong thời kỳ chiến tranh, biết bao nhiêu gia đình bị lâm vào cảnh ly tán, được sống như chúng tôi vào những ngày tháng này cũng là điều may mắn. Nghĩ như vậy cũng là để luôn luôn tự an ủi trong thời gian có sự dằn vặt trong lòng.

Trong một năm vừa qua, vì quá bận bịu trong hai chuyến đi đi về về giữa Việt Bắc và Thanh Hoá, tôi không có một tí ti sáng tác nào cả. Vả lại, tôi cũng không gặp một đề tài hay ho nào, chỉ gặp toàn những chuyện chính trị thuần túy mà tôi không thích.

Tình hình chiến tranh sôi sục hơn trước. Pháp mở nhiều chiến dịch ở vùng trung du. Nhưng dù có gửi danh tướng De Tassigny qua Đông Dương để đưa ra những chiến lược, chiến thuật mới thì Pháp cũng không thể chuyển bại thành thắng được.

Bây giờ đang có một phong trào lớn là “dân công”, một chế độ lao công bắt buộc mà toàn thể dân chúng phải theo. Những chiến dịch lớn đòi hỏi sự tiếp tế thường xuyên về vũ khí cũng như về lương thực. Một mặt, tất cả đường xá ở trong nước đã bị phá hủy, mặt khác Việt Minh không có những đoàn xe vận tải, bây giờ phải dùng tới nhân lực. Ngoài những người làm việc ở trong các cơ quan, chính phủ ra lệnh xung công tất cả nhân dân để làm công việc chuyên chở lương thực và vũ khí này. Ai cũng phải làm nhiệm vụ dân công hết, chỉ trừ người già và em bé. Lúc đó vợ chồng tôi là “phó thường dân”, không còn làm việc cho bất cứ một cơ quan công quyền nào cả, trên nguyên tắc chúng tôi phải đi dân công. Nhưng chúng tôi xin được đóng tiền để cho ban dân công địa phương thuê người khác đi thay thế. Đó là chuyện hợp pháp chứ không phải tham nhũng, hối lộ gì đâu. Đi dân công như vậy, mỗi người dân phải chuyên chở 15 ký gạo, mỗi đêm đi từ 15 tới 30 cây số. Hoặc là gánh gồng, hoặc là thồ bằng xe đạp. Có những vùng, các đoàn dân công đi ban ngày. Có những vùng, để tránh nạn máy bay tới bắn phá, ban ngày nằm nghỉ, tối đến là đoàn dân công ríu rít lên đường. Hàng vạn dân công ra đi, cứ cách 5 hay 10 người lại có một người cầm đèn để soi đường, ở xa trông như một con rồng vĩ đại đang uốn khúc.

Ngồi bế con ở trong Quán Thăng Long, tôi thấy hàng ngàn, hàng vạn dân công kĩu kịt gánh thóc đi qua. Dù lúc này tôi không còn là một cán bộ văn nghệ nữa và dù cả đại gia đình này đang trong tình trạng thiếu hụt gạo ăn, nhưng trước cảnh hi sinh vô cùng lớn lao của người dân quê Việt Nam, tôi cũng có đủ cảm hứng để hát lên cảnh say thóc, giã gạo, gánh lúa nuôi dân… qua một bài “dân ca mới” có nhịp điệu rất vui:

Mênh mông mênh mông sóng lúa mênh mông
Lúc trời mà rạng đông ư rạng đông.
Bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng
Bước đều mà quang gánh ư nặng vai…
. . . . . . . . . . . .
Đêm qua trăng mơ sáng khắp thôn quê
Hỡi chàng mà chàng ơi, chàng ơi.
Có nàng gánh lúa quyến tròn thương nhớ
Thương chàng mà dãi nắng dầm mưa.
Đêm qua trăng mơ thức suốt canh khuya
Hỡi chàng mà chàng ơi, chàng ơi.
Sớm ngày mai tới, thóc vàng cơm mới
Đi nuôi dân gánh một thành hai.
. . . . . . . . . .
Gánh gánh gánh, gánh thóc về
Gánh gánh gánh, gánh thóc về
Gánh thóc về. Gánh thóc về.
Gánh về. Gánh về
Gánh về. Gánh về…
. . . . . . . . .
Đầu óc đang bị trói vào ưu tư phiền muộn nhưng trong lòng thì lại phơi phới hân hoan vì thấy mình vẫn tìm ra cái đep trong kháng chiến và vẫn có thể hát cái đẹp đó lên được. Tôi lại muốn tung cánh ra đi. Nhưng vào thời điểm cuối Đông Xuân 1950-51 và tại địa điểm Chợ Neo này, tôi không còn là một người hoàn toàn tự do như trước nữa. Con chuồn chuồn rụng mất đôi cánh rồi. Nó đâu còn có thể: khi vui nó đậu khi buồn nó bay được nữa? Tôi vừa có một gia đình nhỏ nhưng lại có thêm một bổn phận lớn. Lúc còn ở Việt Bắc, vào “giây phút của sự thực”, với quyết định ưu ái của cái mà anh Nguyễn Xuân Khoát gọi là Đoàn Thể, tôi cũng đã cân nhắc rất kỹ lưỡng khi thấy mình đứng giữa hai trách nhiệm.

Trách nhiệm nào cũng xứng đáng để mình ôm chặt lấy.

- Trách nhiệm đối với dân tộc ư?

Tôi tự thấy không cần phải gia nhập một đảng phái nào dù đó là một đảng đang nắm chính quyền, không cần phải đi ngoại quU³ốc, không cần được tuyên dương công trạng mà tôi vẫn có thể làm việc cho quê hương, dân tộc. Lúc nào, ở đâu và trong mọi trạng huống, tôi vẫn có thể soạn ra những bài hát tỏ tình với người dân hay viết ra những bài hát xưng tụng quê hương, đất nước.

-Trách nhiệm đối với vợ con à?

Tôi đã có dịp cho thấy tôi không coi chuyện chính trị hơn vợ con. Tôi đã từ chối không đi ngoại quốc để ở lại với người vợ đang có thai, rồi cũng từ chối luôn một địa vị nào đó ở Trung Ương để đưa vợ về Chợ Neo sinh con đẻ cái, mẹ tròn con vuông. Cũng như đối với mọi người trên thế gian này, trách nhiệm đó chỉ chấm dứt khi tôi chết. Tôi đã từng quan niệm sự tự do của con người quan trọng như sự tự do của đất nước. Bây giờ, tôi có thêm quan niệm về trách niệm đối với gia đình và quốc gia: Trách nhiệm ngang nhau. Giản dị là như vậy.

Đã nói qua tới những vấn đề rất lý tưởng, xin quay về với chuyện la đà trên mặt đất là cuộc sống hằng ngày. Tôi không còn làm việc với bất cứ một cơ quan nào nữa rồi, có nghĩa là tôi “ngồi chơi sơi nước” trong gần một năm. Tướng Nguyễn Sơn ra đi là tôi trở thành một người bị bỏ quên ở Chợ Neo. Vị Tư Lệnh hiện nay ở Liên Khu IV này là Hoàng Minh Thảo và U±y viên chính trị Trần Văn Quang không phải là những người biết dùng văn nghệ sĩ. Ông Đặng Thái Mai là người hiểu biết thì ông không có được sự cởi mở dễ dàng như Nguyễn Sơn để thu hút văn nghệ sĩ. Tất cả như đã bỏ rơi tôi. Hoặc chờ tôi tới với họ. Khốn nỗi tôi thuộc vào hạng “quân tử Tầu” nên không bao giờ tôi xin ân huệ ở ai hết.
Có thể nước Việt Nam kháng chiến vào lúc này không còn là của “toàn dân” như trong những khẩu hiệu nữa, mà vào nằm gọn trong tay của một tổ chức, của một nhóm người rồi. Cũng cần phải nói ngay ra ở đây là tôi không có gì là phiền hà vì điều đó cả, bởi chưng trên quả điạ cầu bé nhỏ này, có nước nào mà không nằm trong một tổ chức đâu?

Hoặc trong 4 năm, hoặc trong 10 năm, hoặc trong cả 100 năm. Tôi chỉ muốn nói rằng vào lúc tôi từ khước mọi ràng buộc với “tổ chức” để sống với gia đình thì tôi cảm thấy có sự lạnh nhạt của tổ chức đó trong lối đối xử với tôi. Lại còn có sự phao tin tôi bất mãn vì “không được đi ngoại quốc” (!) và Nguyễn Đình Thi đã được chọn để nhân danh Hội Nhạc Sĩ đi dự Hội Nghị Thanh Niên ở Berlin. Lúc tôi còn ở Yên Giã ai cũng tin rằng tôi là người có đủ tư cách để đi dự hội nghị này. Thực ra thì tôi đâu có màng tới chuyện đó? Cho tôi đi Moscou mà tôi còn không ham, huống gì Berlin?

Vào đầu mùa Hạ năm 1951 này, đời tôi đã rẽ qua một nẻo khác rồi. Trước đây, sống một thân một mình, tôi chẳng bao giờ quan tâm tới tiền nong hay lương lậu, hũ gạo hay lọ nước mắm. Cũng như mọi người độc thân khác, tôi chỉ sống với một cái ba lô ở trên lưng. Nay thì khác, không phải là hai cái ba lô ở trên lưng mà là hai mạng sống. Kể từ ngày tôi bỏ nhà ra đi, tự lập thân, đổ mồ hôi ra để sinh sống, lúc nào tôi cũng rất phong lưu dù đời sống của tôi chỉ là của một cậu giáo viên, một anh nông dân hay một chú công nhân tối tăm và vô danh. Đến khi tôi trở thành ca sĩ hát rong và nổi danh ở tiền trường thì tôi phong lưu hơn nhiều. Bây giờ thì sao? Chẳng gì mình cũng là người đã có thành tích công tác — tuy thành tích cũng chẳng có gì là ghê gớm cả — nhưng đáng lẽ ra tôi không nên bị lâm vào cảnh khó khăn như thế này.

Bước vào tuổi 30, tôi vẫn chưa mất đi cái tính “bất cần đời” của thời niên thiếu. Kháng chiến còn giúp tôi hiên ngang hơn trước là đàng khác. Do đó, ở vào cái tuổi “tam thập nhi lập” này, trong khi đại đa số các bạn bè của tôi, vì hoàn cảnh riêng của từng người, có thể họ không dám phản ứng mạnh trước những trói buộc của tình thế thì trái lại, tôi không bao giờ chịu thua hoàn cảnh cả. Tôi đã có đủ nghị lực để từ chối những ân huệ thì tôi cũng có đủ can đảm để tung hê, để quẳng đi những hư danh hay hư lợi nào đó. Không có gì trói buộc được tôi, dù là ân sủng, dù là lạnh nhạt, dù là tình yêu hay hận thù. Tôi là một nghệ sĩ. Tôi yêu chuộng tự do. Tôi đòi hỏi một sự đãi ngộ xứng đáng đối với một nghệ sĩ độc lập.

Sống với một tâm trạng có phảng phất hoài nghi và buồn bã, nhưng cũng với quá nhiều mệt mỏi vì đời sống vật chất hằng ngày, đã có những lúc tôi cần phải “siêu hoá” đời mình. Tôi ngồi soạn lời ca tiếng Việt cho rất nhiều bài nhạc cổ điển trong đó có bài Rêverie của Schumann mà tôi rất thích. Khi soạn lời Việt cho bài này, tôi mường tưởng nhạc sĩ người Đức kia đã nhìn những chòm sao để mà mơ mộng. Tôi bèn chơi chữ: vòm sao – vì sao – dù sao – mà sao:
Chiều rơi từ nơi nào xa vắng cũ

Bóng đêm về đó, trời sầu tưởng nhớ
Và lòng nặng mong chờ.
Ngồi im nhìn lên vườn sao lấp ló
Có muôn ngàn sao lững lờ
Có ai run trong xa mờ.
. . . . . . . . . . . . . . . . .
Vì sao lìa nhau để theo kiếp số?
Cách xa nhiều quá
Nhờ đêm chiếu cho thêm mịt mù.
Dù sao người trên trời cao vẫn nhớ
Biết duyên bạc số
Mà sao vẫn chưa quên tình hờ?
Đột nhiên hạt sao rụng như cánh lá
Thấy tinh cầu ngã
Tưởng là người cũ, là người của mong chờ.
Tình ta hoà theo vệt sao bỡ ngỡ
Tới nơi mơ hồ có một trời hoa
Suốt một đời mơ ước thành tình ta…

Siêu hoá bằng cách nhìn lên trời sao để soạn lời cho bài hát Mơ Mòng… Từ đó, tôi liên tưởng tới ngôi sao trên lá cờ Việt Minh. Tháng sau là tháng 5 và sắp tới cái ngày được coi là sinh nhật của ông Hồ. Để nhớ lại những huyền thoại khi tôi nghĩ về những người như ông lúc tôi còn thơ ấu, nhớ lại những rung động lúc tôi gặp ông một lần ở Hà Nội và một lần ở Việt Bắc — nhớ lại một lần cuối cùng chăng? — tôi soạn ra một bài hát nhan đề A³nh Sáng Hồ Chí Minh:
Ngày mười chín tháng năm, sáng tưng bừng

Trời Việt… (quên)
A³nh Sáng Hồ Chí Minh
Đôi mắt người dìu dắt dân mình.
A³nh sáng bừng khắp nơi

Tôi định hát bài này vào ngày 19 tháng 5 nhưng tôi và cả đại gia đình “dinh tê” vào ngày mùng 1 tháng 5 năm mất rồi.
Thời gian cứ trôi dần. Số tiền tác quyền mà bố vợ đem từ Hà Nội ra cho tôi nay đã gần cạn. Quán Thăng Long đã êm đềm đóng cửa vì vắng khách hoàn toàn. Cũng như tiểu gia đình của tôi, đại gia đình của bố mẹ vợ tôi cũng ăn gần hết số tiền ông Thăng Long vay được ở những bạn bè trong thành phố. Từ một nơi nào đó ở Việt Bắc, hai vợ chồng Phạm Đình Sỹ, Kiều Hạnh cùng với hai con gái là Mai Hương, Bạch Tuyết và một con trai tên là Lan Sơn cũng đã lặn lội về tới Chợ Neo. Phạm Đình Sỹ là con trai thứ hai của bố vợ tôi, trước đây là một công chức của Sở Quan Thuế Đà Nẵng, ra với kháng chiến thì phục vụ tại một cơ quan nào đó ở Việt Bắc. Chị Kiều Hạnh lúc còn ở Hà Nội là một nữ diễn điêu luyện của ngành Kịch Nói trong đoàn kịch Hoa Lan. Khi chị chạy ra với kháng chiến, có lần chị đã định gia nhập Đoàn Văn Nghệ Giải Phóng của Phạm Văn Đôn, nhưng chị không nỡ bỏ chồng con ở một chỗ để đi công tác xa. Sống ở Việt Bắc, với số lương không đủ ăn của anh Sỹ, chị Kiều Hạnh phải làm thêm cái nghề bán quà vặt như bánh chưng,sôi, mía, khoai lang, sắn luộc… cho nhân viên của cơ quan. Ca sĩ Mai Hương lúc đó mới có 9 tuổi mà phải vào rừng, dù trời mưa hay nắng, để hái lá rong cho mẹ gói bánh. Anh chị Sỹ cũng ở trong tình cảnh của đại đa số các gia đình thị dân khác, sau 5 năm rời bỏ Hà Nội để đi theo kháng chiến, bây giờ gia đình này đã kiệt quệ về kinh tế rồi. Và khi bố vợ tôi nhắn tin thì gia đình này bò về Thanh Hoá.

Đại gia đình gồm gia đình bố, mẹ, anh em nhà vợ, gia đình anh chị Sỹ và gia đình tôi bây giờ ngồi nói chuyện với nhau thì tất cả mọi người chỉ còn có một ý nghĩ: “dinh tê”. Y³ nghĩ buồn rầu đó đã xâm nhập tâm hồn tôi. Tôi đã soạn ra một bài hát kể chuyện một nàng tiên nữ có cái tên là Giáng Hương bị Trời đầy xuống trần gian. Bài hát nhan đề Cành Hoa Trắng:

Trời đầy cô tiên nữ
Xuống đầu thai thành hoa
Giữa đêm mờ, hoa nở ngát hương.
Người về trong đêm tối
Ôm cành hoa tả tơi
Bóng in dài gác đời lẻ loi…

Chúng tôi có khoảng một tháng trời để nhìn thấy chung quanh mình có khá nhiều gia đình đã “dinh tê”. Gặp được những gia đình bạn như gia đình Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đình Đỗ Xuân Hợp, gia đình Đoàn Châu Mậu… là có ngay những vụ bàn bạc về việc “rentrer”: vào thành? hay “rester”: ở lại?

Ơ± lại –”rét tê” — thì không còn tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám nói tới thịt, cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các Thần Bệnh Tật. Riêng hoàn cảnh của gia đình tôi thì y hệt hoàn cảnh của người vợ lính trong bài thơ của Hoàng Cầm. Quán Thăng Long ế khách quá nên đóng cửa từ lâu, làm gì còn có dăm ba bát phở thừa để cho Thái Hằng ăn hằng ngày nữa. Thiếu sữa cho đứa bé ăn là cái chắc. Chẳng lẽ lại nuôi một con dê sữa như bà Đào Duy Kỳ ở Việt Bắc? Tôi nhìn lũ con của anh chị Sỹ là Mai Hương, Bạch Tuyết, thấy cháu nào cũng thiếu dinh dưỡng — nhất là cháu Sơn sinh ra ở Lạng Sơn — cháu nào cũng xanh xao gầy gò không thua gì cậu em vợ của tôi cả.

Vào thành — “rinh tê” — thì tiếc công đóng góp vào kháng chiến của mình. Cũng cần phải nói ngay rằng nếu trong lòng tôi lúc đó có một sự hoài nghi nào đối với lối cư sử của một tổ chức đang nắm vận mệnh của toàn dân thì tôi lại không có một chút hoài nghi nào về sự thắng lợi của kháng chiến cả. Sớm muộn thì Pháp cũng sẽ phải thua trong trận chiến này. Những người như tôi cũng có ích lợi cho một giai đoạn của cuộc kháng chiến rồi đấy. Đó là giai đoạn của Mặt Trận Việt Minh– trên danh nghĩa — bao gồm đủ mọi thành phần đảng phái. Nhưng bây giờ bộ mặt chính trị của Việt Minh đã đổi khác. Đảng Lao Động đã xuất hiện. Giai đoạn phản đế đã xong. Giai đoạn phản phong đã khởi sự. Bàn tay sắt đã giơ ra. Không một ai có thể đứng ngoài tổ chức được nữa. Tôi là một trường hợp muốn vượt ra ngoài tổ chức. Tôi bị bỏ quên là phải. Tôi không làm gì được cho kháng chiến nữa rồi, nhưng kháng chiến nhất định sẽ thành công. “Kháng Chiến Nhất Định Thành Công” không phải vì ông Hồ đã bảo như vậy, cơ quan tuyên truyền đã làm thành khẩu hiệu như vậy. Kháng chiến phải thành công vì Quân Đội của Việt Minh đã lớn mạnh, hậu phương của Việt Minh bây giờ không phải chỉ là vùng quê Việt Nam mà thôi, nó còn là cái nước khổng lồ Trung Cộng kia nữa, đa số dân chúng vẫn còn ủng hộ cuộc kháng chiến. Một số dân chúng bất mãn hay bị kiệt quệ về kinh tế mà phải bỏ kháng chiến về thành thì kháng chiến vẫn cứ nhất định thành công cho mà coi.

Bàn tán về việc “dinh tê”, chúng tôi có thêm nỗi sợ cả hai bên Công An Việt Minh và quân đội Pháp.

- Làm sao để đi thoát Công An Việt Minh?

Tôi bàn:

- Chia nhau ra mà đi, đừng đi chung cả ba gia đình.
- Tới vùng Pháp chiếm thì có bị Pháp giết như người ta đồn hay không? Ai sẽ đảm bảo cho mình khi mình tới vùng “địch”?

Bố vợ bảo:

- Đừng lo, miễn là về được tới Phát Diệm. Đã có anh Chung (Phạm Đình Chung, người con cả) đang làm việc trong Bảo An Đoàn ở Hà Nội đảm bảo cho mình.

Trong thời gian này, có một người biết tôi sẽ “dinh tê”. Đó là Nguyễn Đức Quỳnh. Một đêm, từ làng Quần Tín không xa Chợ Neo là mấy, anh đi bộ qua nhà tôi chơi. Hai anh em kéo nhau ra bờ đê sông máng, đứng nhìn về phía xa, thấy có một khoảng chân trời sáng hơn chỗ khác. Đó là một thành phố nào đó, có những đèn đường đêm đang phản ánh sáng lên trời, khiến cho dân thành phố như tôi và anh Quỳnh bỗng thấy nổi lên trong lòng một sự nhớ thương hè phố mà người Pháp đã gọi là “la nostalgie du pavé”. Tuy không nói ra, nhưng chúng tôi đã hẹn thầm là sẽ gặp nhau ở Hà Nội.
CHƯƠNG 35

Mùng 1 tháng 5 năm 1951, đại gia đình họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê. Chúng tôi chọn ngày Lễ Lao Động để ra đi, tin rằng Công An hay cán bộ trong chính quyền ở nơi này cũng như ở những nơi khác đều lơ là trong việc canh gác, vì họ rất bận bịu trong công việc tổ chức ngày lễ quan trọng của họ. Ba người đàn ông là tôi và Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương đi một đàng. Đàn bà, con gái, ông già, trẻ con là ông bà Thăng Long, Thái Hằng, Băng Thanh và bé Quang đi một nẻo khác. Đứa bé được bỏ vào trong một cái thúng để gánh đi. Gia Đình Phạm Đình Sĩ, Kiều Hạnh đi riêng một nẻo khác. Đúng như dự đoán của chúng tôi, cuộc ra đi của ba toán đã chẳng gặp một trở lực nào cả.
Tôi, Phạm Đình Viêm và Phạm Đình Chương đã đi qua Đò Lèn để tới vùng Phát Diệm. Chỉ mất một ngày đường là tới vùng tề. Cảnh đồng quê vẫn êm đềm, óng ả như tự bao giờ, chẳng cần biết đến chuyến đi vô cùng quan trọng của chúng tôi. Vừa đi tôi vừa mở rộng đôi mắt, vừa lóng đôi tai để thu vào tâm trí hình ảnh và âm thanh của một miền đất nước mà không bao giờ — phải, không bao giờ — tôi còn nhìn, còn nghe thấy nữa. Tôi thở mạnh, không biết có phải tôi đang thở dài hay tôi đang cố hít một lần cuối cùng cái không khí “đồng quê bát ngát” nằm trong một bài hát của tôi đây?
Còn khoảng vài cây số nữa là sẽ tới cái đồn đầu tiên của vùng bên kia chiến tuyến. Chúng tôi gặp một cái quán nhỏ và vào quán để nghỉ ngơi. Lần đầu tiên, sau 5 năm đi kháng chiến, bây giờ chúng tôi mới nhìn thấy những chai rượu bia. Dù tôi không uống rượu bao giờ, cùng với hai anh em vợ, tôi cũng gọi mua một chai bia và một bát phở. Đã từng thiếu chất ngọt trong người từ lâu, cả ba chúng tôi pha đường vào bia để uống. Không ngờ bị say rượu, đỏ mặt tía tai lên. Đó là một kinh nghiệm đầu tiên trong cuộc đổi đời này. Ăn uống xong, chúng tôi hồi hộp ra đi trên con đường đưa chúng tôi tới thị xã Phát Diệm.

Khi tôi cùng với hai anh em vợ tới một con sông nhỏ thì nhìn thấy một cái đồn ở bên kia sông. Đột nhiên tôi thấy lá cờ tam tài cắm trên nóc đồn. Tôi bảo hai người anh em vợ hãy cùng tôi đứng lại ở bên này chiếc cầu. Ngước mắt nhìn lá cờ Pháp, tôi không làm sao ngăn được hai dòng nước mắt đang từ từ chảy trên đôi má…

… Nước mắt tiếc thương cho những năm đem hết tâm trí ra để cống hiến cho Cách Mạng và Kháng Chiến… Trong đó có giọt nước mắt rơi khi tưởng rằng gặp được tình yêu nước qua hình ảnh một lãnh tụ, trộn vào nước mắt vui trên chuyến xe lửa “xuất quân”, nước mắt rơm rớm khi nhìn thấy xác bạn đồng đội trong chiến khu Đất Đỏ, nước mắt cảm động khi nghe bà mẹ quê hát bài dân ca của mình mà ngỡ rẵng đó là một bài hát cổ truyền, nước mắt ào ào vì chuyện bi hùng của một bà mẹ ở huyện Gio Linh, nước mắt chảy vào trong ruột khi được tin mẹ mình đã mất. Và lúc này là nước mắt nhục nhã…

Tôi giật mình, vội lấy tay lau khô nước mắt khi nghe tiếng quát ở bên kia sông:

- Ê, mấy thằng kia. Đi đâu?

Nghe thấy tiếng súng lên đạn lóc cóc, chúng tôi vội vàng giơ cao lá cờ trắng đã làm sẵn với chiếc mù-xoa. Rồi chúng tôi bước qua cầu để tới đồn canh. Ơ đây lính giữ đồn là lính “Commando”, mặc binh phục mầu đen. Một Quản Binh Pháp tên là Vandenberghe đã tạo ra những toán lính Việt-Pháp này, ăn mặc và trang bị nhẹ giống như Việt Minh để hoạt động ở những vùng tề. Chúng tôi khai là thường dân đi tản cư ở vùng Việt Minh, nay đã kiệt quệ về kinh tế cho nên muốn trở về với gia đình và khai ra tên người anh ruột của Viêm là Phạm Đình Chung hiện đang phục vụ trong Bảo An Đoàn. Sau khi quay tê-lê-phôn hỏi ai đó không biết, trưởng toán lính Commando ký giấy cho chúng tôi ra đi. Chúng tôi vào tới thành phố Phát Diệm thì trời đã về chiều. Rồi đêm tối xập xuống. Chúng tôi đang đi lang thang ở trong đường phố tối om để tìm chỗ ngủ thì gặp một người quen tên là Diễn. Anh Diễn niềm nở cho chúng tôi về tạm trú tại nhà anh. Trong đêm đầu tiên ở một vùng cũng là phần đất quê hương nhưng vẫn còn cảm như xa lạ, tôi thức thâu đêm suốt sáng.
Hôm sau chúng tôi ra Ty Công An Phát Diệm để làm giấy tờ cần thiết. Chụp ảnh, lăn tay và được cấp một cái thẻ tùy thân to như một tấm passeport. Tôi cũng là nhân vật nổi tiếng ở trong vùng thành phố rồi cho nên tôi được đối sử rất là tử tế. Tôi không còn mang mặc cảm đầu hàng nữa khi nhận ra rằng vùng Phát Diệm này là một vùng rất độc lập. Ông Bảo Đại, sau khi từ Hồng Kông về nước với địa vị một Quốc Trưởng, đã giành được ở Pháp những gì mà ông Hồ đòi hỏi. Đã có một Chính Phủ Việt Nam mà Thủ Tướng là Trần Văn Hữu, Thủ Hiến Bắc Việt là Đặng Hữu Chí, nhưng người Công Giáo ở Khu Phát Diệm-Bùi Chu này, dưới sự lãnh đạo của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, vẫn tuyên bố vùng này là vùng tự trị, không thuộc quyền Phủ Thủ Hiến Bắc Việt. Không theo Pháp, không theo Việt Minh, không chịu sự chỉ huy của Phủ Thủ Hiến, họ có quân đội riêng, có tổ chức hành chính riêng. Đó là một thứ mầm mống của chính thể quốc gia sau này. Đặt bước chân đầu tiên vào vùng Bùi Chu-Phát Diệm này, tôi xác định là tôi về với quốc gia, không phải về với Pháp.

Chỉ ở lại Phát Diệm thêm một ngày nữa, rồi chúng tôi đi bộ qua Nam Định để từ đó mua vé máy bay đi Hà Nội. Tiền mua vé máy bay là tiền bán chiếc nhẫn cưới tôi mang theo phòng hờ. Lần đầu tiên ngồi trên máy bay, chúng tôi lại có thêm một kinh nghiệm nữa của cuộc đổi đời. Nhưng khi nhìn qua lỗ kính của máy bay để thấy cảnh đồng quê đang trôi lờ lững ở dưới kia, tôi cũng không cầm được dòng nước mắt. Về tới Hà Nội, tôi được tiếp đón rất nồng hậu bởi những bạn bè cũ của tôi, phần nhiều là đảng viên của Đảng Đại Việt, hiện nay đã nắm những chức vụ quan trọng của chính quyền. Ông Thị Trưởng Hà Nội Thẩm Hoàng Tín cũng là người quen biết. Ông có họ hàng với nhạc sĩ Thẩm Oánh. Có cuộc “thẩm vấn” người từ vùng Việt Minh trở về. Tôi cũng được anh bạn phụ trách việc phỏng vấn coi như một nghệ sĩ độc lập không làm chính trị cho nên buổi gặp gỡ đã diễn ra trong không khí thân hữu, nhẹ nhàng và nhanh như chớp nhoáng. Nhờ có hai người bạn là Đặng Trần Vận và Lý “Móm” — lúc đó đang làm việc trong hai tổ chức của Bộ Thông Tin và Bộ Nội Vụ — Sở Công An Hà Nội không làm phiền gì tôi nữa sau buổi phỏng vấn lúc ban đầu. Chỉ sau này, khi tôi vào sinh sống ở Saigon tôi mới bị Công An dưới quyền của Mai Hữu Xuân bắt nhốt vào khám Catinat trong 120 ngày. Bắt nhốt mà không có xét xử gì cả, với mục đích là “dằn mặt tôi”, một người mà họ ngờ là hãy còn dính líu với Việt Minh. Hồ sơ về vụ bắt tôi vào năm 1952 này đã được giải mật sau thời gian ba mươi năm. Tài liệu đó hiện đang nằm trong Thư Viện QuU³ốc Gia Pháp.

Hai ngày sau khi tôi về tới Hà Nội thì 2 toán “dinh tê” kia cũng đã từ Chợ Neo đi qua Đò Lèn vào tới Phát Diệm, rồi từ đó đáp tầu thủy, ngược con sông Đáy đi lên Hà Nội. Chúng tôi chia nhau ra tạm trú ở nhà bà con vài ngày rồi sau khi thuê được một cái garage ở phố Hàm Long thì tất cả chúng dọn về đó ở chung với nhau, 8 mạng người trong một gian phòng không đầy 70 thước vuông mà chúng tôi gọi là cái hộp diêm. Gia Đình Phạm Đình Sĩ tách rời ra khỏi đại gia đình này, đi ở chỗ khác. Người anh Cả Phạm Đình Chung mặc quân phục oai nghiêm tới “cái hôE°p diêm” để gặp mọi người trong gia đình và kể cho nghe những chiến dịch trong đó có sự tham dự của Bảo An Đoàn…

Hà Nội bây giờ đã có khá nhiều người trở về sau 5 năm đi tản cư. Thành đô rất náo nhiệt vì mang một bộ mặt chiến tranh khẩn cấp. Kịch chiến xẩy ra giữa Pháp và Việt Minh ở khắp mặt trung du. Tại Vĩnh Yên. quân chính quy của Việt Minh đã xuất trận nghênh chiến với Quân Đội Pháp dưới quyền chỉ huy mới mẻ và quyết liệt của tướng De Lattre. Tại mặt trận Ninh Bình, con trai độc nhất của De Lattre là trung úy Bernard bị tử thương. Đã có lính của Quân Đội Quốc Gia — được thành lập từ cuối năm 1950 — tham dự vào các chiến dịch bên cạnh Quân Đội Pháp. Khi còn ở vùng quê, trong một thời gian dài 5 năm trời, tôi không biết một tí gì về tình hình ở trên thế giới cả. Về Hà Nội đọc báo thì mới thấy chiến tranh Cao Ly đang đi vào hồi quyết liệt. Sau Hội Nghị ở Yalta là nơi các cường quốc chia nhau những vùng ảnh hưởng, với chiến tranh Cao Ly này, tôi thấy thế giới đã chia ra hai phe rõ rệt. Bất cứ một cuộc nội chiến ở một nước nhỏ nào — ngay từ bây giờ hay là về sau — theo tôi cũng chỉ là phản ảnh của cuộc chiến giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản. Tuy đã sống hơn năm năm xa cách và thương nhớ Hà Nội nhưng bây giờ thì tôi không còn một phút rảnh rang nào để sống với thành đô yêu dấu của tôi cả. Ngoài sự lo liệu nơi ăn chốn ở và sự mưu sinh cho cả gia đình bố mẹ vợ lẫn gia đình của mình, tôi còn luôn luôn bị cái dĩ vãng gần gũi ám ảnh. Tâm trạng của tôi lúc đó còn là của một người hoảng hốt, vừa bị mất đi một tình yêu quá lớn và chưa có một mối tình tự quê hương nào tới để thay thế. Mối tình này rồi cũng sẽ tới, nhưng hiện nay còn quá sớm để nói tới nó…

Một cậu em tên là Phạm Viết, người phố Hàng Tre — mà tôi yêu mến vô ngần kể từ ngày hai anh em còn chia nhau miếng bánh mì chấm dấm ở trường Tiểu Học phố Hàng Thùng — đang là cán bộ Việt Minh hoạt động ở trong nội thành, bí mật tới gặp tôi ở trên căn gác nhỏ trong ngôi nhà lớn ở đường Carreau ngay khi tôi mới chân ướt chân ráo về tới Hà Nội và đang tạm trú tại nhà người anh rể. Phạm Viết cũng hoảng hốt như tôi. Hai anh em nhìn nhau rất lâu. Rồi chúng tôi mở lời tâm sự với nhau. Phạm Viết không có đủ thẩm quyền để trả lời những câu hỏi hoài nghi của tôi. Rồi cậu em mở cửa ra đi. Không bao giờ tôi gặp lại Phạm Viết thân yêu của tôi nữa.

Cùng với mấy người anh em vợ, chúng tôi đi coi phim chiếu bóng là môn giải trí mà chúng tôi đã thiếu thốn trong nhiều năm qua. Lúc đó có một rạp “xi nê ma” mới là rạp Studio, rất khang trang, ở gần rạp Majestic trên đường Hai Bà Trưng chiếu những phim “Tân Tả Thực” của ợY Đại Lợi trong đó có những tài tử như Vittorio De Sica, Sophia Loren đóng vai chính. Tôi rất thích những chuyện phim như Kẻ Cắp Xe Đạp (Le Voleur De Bicyclette) Lũ Trẻ Đánh Giầy (Sìiùca) nói lên thảm trạng của người dân ợY trong Thế Chiến 2. Nhưng ngoài thời gian đi rong chơi hay đi coi phim chiếu bóng như vậy, chúng tôi không biết phải làm cái gì cả. Gia đình ca nhạc sĩ của chúng tôi ngồi nhìn nhau suốt ngày. Thế là sau hai tuần sống ở thành đô này, tôi có ngay ý nghĩ là chúng tôi khó có thể sinh sống ở Hà Nội được. Phải đi tìm đất sống. Đi tìm một nơi nào có thể “bán” được tiếng đàn, tiếng hát của mình. Tôi lập tức đáp máy bay vào Saigon là nơi tôi đã có kinh nghiệm sống, nơi chắc chắn có Đài Phát Thanh, có hãng sản xuất đĩa hát, có gánh hát rong… địa bàn hoạt động của mình là đó.

Gặp lại Saigon, tôi không thấy ở đây có không khí chiến tranh như ở Hà Nội. Trái lại, thành phố có vẻ thanh bình và sầm uất hơn thời tôi đi theo gánh hát Cải Lương và thời tôi “hoạt động cách mạng” (!). Pháp có ưu thế quân sự hơn Việt Minh ở miền Nam cho nên Saigon rất an ninh dù thỉnh thoảng cũng có một, hai vụ ám sát viên thanh tra mật thám người Pháp hay người công chức cao cấp người Việt. Còn đang trong tâm trạng của một người vừa ở bên kia chiến tuyến trở về và đang lo tìm cách sống, tôi không dám nghĩ tới chuyện rong chơi tại nơi được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông này. Tôi đang chạy đi chạy lại trong thành phố đã được mở rộng hơn trước để tìm việc thì tôi gặp được Hoàng Cao Tăng, chủ sự Phòng Chương Trình của Đài Pháp A³, là người tôi đã quen biết từ trước.

Hoàng Cao Tăng đảm bảo là gia đình chúng tôi sẽ được mời tới hát tại đài phát thanh này với số tiền thù lao đủ cho mỗi người có một đời sống tương đối không khó khăn lắm. Gặp Phạm Xuân Thái và thấy anh bạn này vẫn sống một cách ung dung nhàn nhã và sẵn sàng cho đại gia đình chúng tôi tạm trú tại nhà anh. Rồi khi tôi tới gặp chủ nhân một hãng sản xuất điã hát Việt Nam là Lê Văn Tài thì tôi được lĩnh trước một số tiền tác quyền khá lớn. Tân Nhạc ở Saigon lúc này đã có đất sống. Trước kia, các hãng sản xuất đĩa hát chỉ thu thanh cổ nhạc, nay đã khởi sự thu thanh tân nhạc. Với kinh nghiệm đi hát với gánh Đức Huy, tôi thấy rằng nếu vào Nam sinh sống, tôi còn có thể tổ chức cho gia đình đi hát ở mọi nơi, nếu chúng tôi thành lập được một ban hợp ca và phối hợp với một ban kịch nhỏ. Chúng tôi sẽ có thể sống bằng nghề âm nhạc, một nghề rất độc lập, không cần phải dính líu tới chính trị.

Trở ra Hà Nội, tôi đã dùng số tiền lĩnh trước của Lê Văn Tài để mua vé máy bay cho tất cả mọi người đi vào miền Nam. Tính ra thì từ ngày bỏ Chợ Neo, Thanh Hoá để “dinh tê” vào thành, chúng tôi chỉ ở lại Hà Nội trong đúng có một tháng trời.

Trích HỒI KÝ PHẠM DUY

(Blog Đào Hiếu)

Tết Mậu Thân qua Nhật ký của Trần Bạch Đằng

16:23 |
LỊCH SỬ dần dần hé mở và đến nay thì chúng ta đã rõ, các tác giả chính của cuộc Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa Mậu Thân 68 chính là các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng. Tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tư lệnh, cho đến ngày cuối cùng mới được nghe báo cáo toàn bộ kế hoạch và ông đã cố bình thản để “dấu đi niềm cay đắng”.

Còn ông Trần Bạch Đằng, bấy giờ là Thường vụ Khu ủy Sài Gòn – Gia Định, phụ trách Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam, trực tiếp chịu trách nhiệm tiến công ở nội thành Sài Gòn. Trước đó, theo chỉ thị của Trung ương Cục, ông được giao khởi thảo kế hoạch nội thành và đúng vào thời gian ấy, vợ ông – bà Tôn Thị Hưởng (Nguyễn Thị Chơn), bị bắt. Gần cuối năm 1967, bà đã được Mặt trận bí mật trao đổi người với Mỹ. Bà từng tham gia cuộc hòa đàm Pari trong phái đoàn Chính phủ Lâm thời với tư cách Phó Trưởng đoàn. Sài Gòn rất thất vọng do không bắt được Trần Bạch Đằng và ra lệnh, hễ phát hiện ra, nếu không bắt được thì cho quyền bắn hủy diệt xe …

Chúng ta hãy theo dòng Nhật ký. Vào đêm Ba mươi Tết, hai ông Trần Bạch Đằng và Võ Văn Kiệt nghe tiếng pháo nổ đón giao thừa trong lúc di chuyển trên sông Vàm Cỏ Đông. Khi trời sắp sáng, Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu), chỉ huy trưởng Biệt động thành đến báo cáo, giữa đêm Huế đã nổ súng. Các ông hết sức ngạc nhiên nhưng không thể đoán được lý do. Té ra, giờ nổ súng quy định là giao thừa âm lịch, nhưng năm đó lịch miền Bắc lại đi trước miền Nam một ngày, cho nên nơi theo lịch cũ, nơi theo lịch mới. Đây là trục trặc đầu tiên của Mậu Thân 68 – một trục trặc “chết người”, một cái “sái” của Mậu Thân 68? Ông Trần Bạch Đằng viết, sau này, lúc tổng kết, “chúng tôi càu nhàu và có đồng chí trách đồng chí Nguyễn Xiển, nhè lúc “ăn thua” mà chỉnh lịch! Thực ra đồng chí Nguyễn Xiển bị trách oan – các nhà khoa học đâu có biết nổ ra đợt Mậu Thân”!

Quân đội Hoa Kỳ trong trận tái chiếm Cố Ðô Huế, Tết Mậu Thân 1968
Tiếp tục theo dòng Nhật ký. Ông Trần Bạch Đằng cho biết, cả một lực lượng lớn đang hành quân phơi mình giữa đồng trống trải nhưng máy bay trinh sát của Sài Gòn có vẻ không chú ý. Như vậy, yếu tố bất ngờ vẫn còn, dù đài phát thanh Sài Gòn đang liên tục phát tin chiến sự ác liệt tại Huế. Thời gian gấp đã làm cho một số kế hoạch quan trọng không thể thực hiện, chẳng hạn dự định tổ chức một cuộc tập hợp lớn vài vạn người tại vườn hoa Tao Đàn, khi biệt động nổ súng sẽ tràn qua chiếm Dinh Độc lập và Đài phát thanh; vấn đề hợp đồng của các tiểu đoàn mũi nhọn với lực lượng biệt động trong điều kiện còn cách mục tiêu cả trăm cây số…

Tốc độ hành quân chậm hẳn lại. Hai ông Đằng và Kiệt sốt ruột, vượt lên trên, gặp những con rạch, họ lội ào qua làm cho lính kháo nhau có hai “ông già” thật “hắc xì dầu”. Tới chín giờ đêm, họ đến một căn cứ tiểu đoàn, gặp Tiểu đoàn phó đang say mèm. Nhật ký của ông Trần Bạch Đằng làm ta hiểu thêm sự chuẩn bị của Mậu Thân 68:

Ông Trần Bạch Đằng:

- Tiểu đoàn trưởng và chính trị viên đâu?

- Báo cáo cấp trên, Tiểu đoàn trưởng đi cưới vợ, chính trị viên đi đám cưới…

- Các anh chưa được lịnh hành quân sao?

- Báo cáo chưa?

- Tiểu đoàn anh phụ trách cánh nào?

- Báo cáo, Tổng nha cảnh sát…

Ông Trần Bạch Đằng tiếp tục hỏi về việc qua lộ, anh ta đáp với giọng chưa tỉnh rượu:

- Qua được…mà nếu pháo bắn đổ ruột thì ráng chịu!

Ông Trần Bạch Đằng không dằn được cơn nóng, phê phán gay gắt lãnh đạo địa phương, còn ông Võ Văn Kiệt không nói gì nhưng không kìm nổi bực bội, bỏ ra ngoài. Chúng ta tự hỏi, một tiểu đoàn chủ lực liệu có thể chiến đấu với tình trạng như vậy?

Mồng hai Tết, Đài phát thanh Sài Gòn, kể cả Đài phát thanh của quân đội đều im bặt. Vậy là, có thể Đài phát thanh Sài Gòn đã bị chiếm nhưng không hiểu sao không thấy phát hiệu triệu của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Ông Kiệt nhận định, có thể biệt động đã chiếm đài nhưng không có nhân viên kỹ thuật, cũng có thể đối phương phản kích. Khoảng 10 giờ, Nguyễn Đức Hùng từ nội thành ra báo cáo trong nghẹn ngào: “Tôi có linh cảm là các đồng chí biệt động đã hy sinh…”.

Mồng ba Tết, trực thăng quần đảo trên Sở chỉ huy. Tiếp đó, pháo bắn trên diện rộng, trực thăng xả liên thanh và rốc két. Bầu trời Sài Gòn sôi sục. Suốt ngày, Sở chỉ huy nằm dưới trận mưa hỏa lực các loại của đối phương. Tình hình rất gay go. Chủ lực không thể thọc được vào thành phố. Bộ Tư lệnh điện cho rút lực lượng khỏi sây bay Tân Sơn Nhất.

Ngày mồng bốn Tết, tình hình càng gay go hơn. Sài Gòn đã dò được hướng đặt Sở chỉ huy, liên tục cho pháo kích theo lối hủy diệt từng ô theo bản đồ. Thương binh lên đến con số báo động mà không có nơi chữa chạy. Một số nhà dân chứa hàng chục thương binh trên trần nhà. Phía sau Sở chỉ huy, trong hố bần, các bác sỹ, y tá thực hiện hàng loạt ca mổ dưới làn mưa bom pháo.

Ông Trần Bạch Đằng với một tiểu đội xe đạp “hộ tống”, cấp tốc sang họp với ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt vừa thoát một cơn hiểm nghèo. Một trung đội Mỹ thọc sâu vào Sở chỉ huy cơ bản, để giữ bí mật, bảo vệ không nổ súng và ông Kiệt phải rút xuống hầm bí mật trong khi trung đội Mỹ đóng lại ngôi nhà có chiếc hầm bí mật cả tiếng đồng hồ. Nên duy trì tác chiến trong nội thành hay rút ra, cuộc họp chưa đi đến thống nhất. Họ nhất trí xin chỉ thị của Trung ương Cục.

Ngày mồng sáu Tết, bảo vệ bố trí cho ông Trần Bạch Đằng một căn hầm bằng bao cát, song ông không chịu ở căn hầm đó mà líp ra vườn, nơi có căn hầm cá nhân nhỏ đắp sơ sài trên thân dừa nước. Một trái pháo rơi trúng nhà, chiếc hầm có bao cát nát vụn, bốn người trong hầm đều thiệt mạng.

Gần trưa, đại đội thủy quân lục chiến Mỹ, có xe thiết giáp yểm trợ, đánh thẳng vào Sở chỉ huy. Vòng ngoài, hai tiểu đoàn bộ binh quân đội Sài Gòn làm nhiệm vụ thê đội hai. Trận đánh hết sức ác liệt, kéo dài đến chiều tối, có lúc hai bên đánh giáp lá cà. Đây là trận đánh ác liệt nhất trong đợt 1 Mậu Thân. Sở chỉ huy của ông Trần Bạch Đằng được bảo vệ an toàn nhưng bị thương và hy sinh gần một trung đội.

Ngày mồng Bảy Tết, ngày cuối được ông Trần Bạch Đằng ghi Nhật ký. Bấy giờ, Bộ tư lệnh quyết định rút toàn bộ lực lượng từ nội thành ra vùng ven. Cuộc rút lui phải mất hàng tuần lễ sau đó lực lượng mới ra khỏi thành phố. Đợt 1 Mậu Thân trong nội thành coi như kết thúc từ ngày mồng Bảy Tết. Mậu Thân 68 vẫn còn đợt 2 và đợt 3 nữa, song kết quả không diễn ra như tính toán của Hà Nội.

Ông Trần Bạch Đằng kết thúc Nhật ký ở đây. Chiến sự năm 1968 và 1969 tiếp tục diễn ra ác liệt. Ông Trần Bạch Đằng thay ông Võ Văn Kiệt làm Bí thư thành ủy Sài Gòn, ông Kiệt được Trung ương Cục phân công làm Bí thư khu 9. Bốn ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ và Trần bạch Đằng thay nhau làm Bí thư thành ủy Sài Gòn trong gần một phần tư thế kỷ.

Nhật ký của ông Trần Bạch Đằng là một cái nhìn gần, trực tiếp của một cán bộ chỉ huy cao cấp mặt trận nội thành Sài Gòn. Do đó, mặc dù chỉ ghi từ ngày mồng Một đến mồng Bảy Tết, song nó nói lên khá nhiều điều về Mậu Thân 68.

Càng suy nghĩ về Mậu Thân 68, chúng ta càng khâm phục những nước cờ quân sự thiên tài của ông Võ Nguyên Giáp trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và đặc biệt là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. “Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh” – lời Hồ Chí Minh và đó cũng là một đặc điểm nổi bật trong tư tưởng quân sự Võ Nguyên Giáp.

Lê Mai

(Blog Lê Mai)

Vụ án Năm Châu - Sáu Sứ: Triệt hạ Tướng Giáp

23:31 |
Võ Nguyên Giáp
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, Tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.

Năm ấy Tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh - Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”.

Tại Hội nghị Trung ương 12, Khóa VI, ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.

Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh, Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó thay ông Linh làm tổng Bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép”.

Tướng Đồng Sỹ Nguyên, ủy viên Bộ Chính trị Khóa VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại tướng mà xứng đáng là một đại nguyên soái. Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị tướng trong Quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ Tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.

Gần tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng 9 giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ triệu tập một cuộc họp kín gồm có các thứ trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai Chí Thọ nói: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng Bí thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Ủy ban Kiểm tra Trung ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư”.

Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi xin chấp hành”.

Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của Tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm đúng”.

Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày 14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ. Anh em thi hành không bắt tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt:

‘Chị không được phép hỏi như thế, chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết’. Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là người Cục II,

yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em An ninh nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày Sáu Sứ khai hết172”.

Không hề có một tổ chức nào do cụ Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị tướng nào, nói gì là đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của Tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn, nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà Tướng Giáp nghe không rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao trước Đại hội VII do Tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị Trung ương 12 về Tướng Giáp”.

Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn phòng Tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12 về nhà nghỉ trưa, Tướng Giáp hỏi: “Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên nhắc lại sự việc xong, Tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều, ông Huyên vào phòng thấy Tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng”.

Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục trưởng Tư Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội, 17-5-1991, Tướng Lê Đức Anh viết một bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khóa IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh”. Do căng thẳng, Tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn một triệu. May mà cấp cứu kịp”.

Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói:

‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng Bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn phòng Trung ương. Sau đó, Trung ương không có một lời nào nói lại với Tướng Giáp, còn Tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ Viết Thanh: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả các ủy viên Bộ Chính trị cũng không mấy ai biết”. Thái độ của Tổng Bí thư như một tín hiệu để ngay lập tức ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.

Theo ông Võ Viết Thanh, ngày 23-6-1991, khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội: “Trước phiên họp cuối cùng của Hội nghị trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính trị và Ban Bí thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khóa VII”.

Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được173. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận”174. Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội, tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm, thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai là ra lệnh bắt oan Tướng Trà và Tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần, giết mòn tôi”.

Năm ấy, Tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi. Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự nào, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”, nếu thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn. Sự mặc cảm trước uy danh của Tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.

Huy Đức

( Trích từ cuốn Bên thắng cuộc của nhà báo Huy Đức )

Mậu Thân 1968, và những điều gian trá

16:57 |
... “Xin gọi trăng soi Khe Ðá Mài

Thời gian rêu phủ mảnh đầu ai

Bãi Dâu đau xót hồn Gia Hội

Phú Thứ tóc vương trảng cát dài...”


(Huế Oan Khiên)

Dù thời gian 45 năm đã trôi qua, mỗi lần nhắc đến Huế, tôi nghe như tiếng “Tết” và tiếng “Mậu Thân” đi liền theo sau đó. Tôi có mặt ở Huế từ ngày 28 Tháng Chạp và rời Huế vào chiều ngày 23 Tháng Giêng, năm Mậu Thân trên một chuyến tuần giang của Hải Quân Mỹ, từ bến tàu Tòa Khâm trước trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế để vào Ðà Nẵng.

Khi từ vùng Chợ Cống chạy về lánh nạn trong khuôn viên trường học, nhìn về phía thành nội, tôi đã thấy cảnh lửa cháy bốn góc thành trong đêm, cũng như nhận chịu hơi bom cay, theo gió thổi bạt về phía bên ngày tả ngạn sông Hương và chứng kiến những xác người được chôn vùi sơ sài trong khu vườn của ngôi trường học.

Nói tôi là nạn nhân là sống sót cũng có phần đúng. Khi chưa chạy về được nơi tạm cư lánh nạn thì Việt Cộng đã có lần đứng trước cửa nhà, nơi đền thờ của An Thường Công Chúa, chúng không vào nhà lục soát nhưng đứng ngoài sân quát nạt: “Tất cả ai trong nhà ra hết!” Gia đình ông chú già, đàn bà, trẻ con đều ra tập họp trước sân, trừ hai đứa chúng tôi, cậu em, một sĩ quan thuộc Trung Ðoàn I Bộ Binh và tôi, sau những ngày đói khát, lo sợ rã rời, đang nằm ngủ mê mệt dưới gầm giường, lọt giữa những bao cát chống pháo kích, không nghe, không biết gì cả. Nếu vào lúc ấy, chúng tôi thức giấc hay tỉnh táo, sẽ có phản ứng ra sao? Nếu vào lúc ấy, chỉ một tiếng gọi: “Ba ơi” của một trong những đứa con tôi, thì tôi đã không còn hạnh phúc, may mắn hôm nay, 45 năm sau, ngồi viết những dòng chữ này.

Trên “Chiếc Cầu Ðã Gãy”. Hình ảnh chạy loạn trong giai đoạn Mậu Thân 1968 tại Huế.
Tôi xin nói thêm, tuyệt vọng và sợ hãi nằm trong hầm trú ẩn, tôi ôm cái máy thu thanh nhỏ áp thẳng vào tai, vào khoảng ngày mồng năm Tết, nghe qua đài phát thanh quân đội Saigon, hai phóng viên Phạm Huấn và Dương Phục đang tường trình về mặt trận Chợ Lớn, để thấy mình chưa hoàn toàn tuyệt vọng, và may ra có thể sống sót.

Phải một thời gian dài sau khi Việt Cộng rút ra khỏi thành phố người ta mới tìm ra hầm chôn tập thể đầu tiên, rồi từ đó những hố chôn tập thể khác ở ngay trong thành phố, ra ngoại ô, rồi ở xa hơn như Khe Ðá Mài. Tất cả các nạn nhân đều bị trói khuỷu bằng tre lạt, dây điện thoại, nhiều người xương sọ bị vỡ, phần lớn nguyên vẹn, hay trong tư thế tuyệt vọng vì bị chôn sống. Nhân chứng Phan Văn Tuấn, năm Mậu Thân mới 16 tuổi là một học sinh trường Bồ Ðề Huế, về sau là sĩ quan Pháo Binh VNCH, hiện sống tại Sydney, Úc, người đã bị Việt Cộng bắt đưa đi làm công tác lấp đất chôn người, trong lần được ký giả Nam Dao tại Adelaide phỏng vấn, đã lên cơn hoảng loạn khóc nức nở vì những ấn tượng không phai mờ, ám ảnh anh trong nhiều năm.

Sau khi về Saigon và tên Việt Cộng cuối cùng ra khỏi Huế, tôi đã có dịp trở lại đây một đôi lần theo Ủy Ban Truy Tầm và Cải Táng Nạn Nhân Tết Mậu Thân để chứng kiến những chuyện có thật như trên. Bản thân tôi cũng được Tổng Cục CTCT giao công tác trở lại Huế để sưu tập tài liệu thảm sát Mậu Thân, để có thể hoàn thành một tập sách tương tự như Bạch Thư. Cách sắp xếp của tôi là tiếp xúc với những gia đình của nạn nhân điển hình, lấy hình ảnh lúc còn sống, tiểu sử nạn nhân, sau đó lấy đúng hình ảnh của nạn nhân đã bị thảm sát, thi thể đã đánh số sau khi được đào lên với giây trói hay sọ bị vỡ, ghi nhận chi tiết do Ủy Ban Truy Tầm cung cấp, ghi số thứ tự từ 1 đến 100. Tiếc thay, tập sách (hay tờ trình) với đầy đủ hình ảnh minh chứng, được đệ trình lên tổng cục trưởng, đã bị bỏ quên trong một xó xỉnh nào đó, mà với một sĩ quan thuộc cấp như tôi không có quyền thắc mắc.

Bốn mươi lăm năm sau, Việt Cộng còn ca tụng cái gọi là chiến thắng Mậu Thân, và đổ tội cho hơn 6,000 cái chết của dân Huế là do bom đạn, phi pháo của phía Việt Nam và Mỹ tàn sát. Chúng trả lời làm sao về những cái chết của các giáo sư y khoa Tây Ðức, những linh mục, sinh viên, học sinh, người buôn bán và ngay cả những viên chức chính phủ VNCH bị “bom đạn” Mỹ giết lại được người “cách mạng” chôn cất tử tế trong mấy mươi hầm tập thể trước khi rút lui.

Ủy Ban Truy Tầm và Cải Táng có sự chứng kiến của các phái đoàn ký giả quốc tế thường trực chẳng bao giờ tìm thấy trong các hầm tập thể này một đôi dép râu hay một cái nón cối, hoặc tai bèo!

Vậy mà 45 năm sau vụ thảm sát này, những tên đồ tể tắm máu đồng bào Huế còn can đảm dựng lên một cuốn phim 12 tập, phỏng vấn những nhân vật gian trá, để lừa dối lớp trẻ mới lên và cả lớp người nhẹ dạ, u mê dưới bóng tối của chế độ cộng sản rằng hoàn toàn không có vụ gọi là “thảm sát Mậu Thân”.

Cộng sản gian dối và luôn luôn lặp lại gian dối, ngay cả những điều mà chúng biết là gian dối vì nhu cầu tuyên truyền chính trị và ngay cả vì nhu cầu miếng ăn. Cuốn phim “Mậu Thân 1968” do bà Lê Phong Lan bỏ tiền túi ra thực hiện, nhưng khi làm xong thì đài truyền hình CSVN đã mua ngay để chiếu trong dịp Tết Quý Tỵ 2013.

Tết Mậu Thân, gia đình nào ở Huế lại không có tang chế. Bảy năm sau, xương mục nạn nhân chưa tan rã hết, Việt Cộng vào, nhưng đau buồn và nước mắt, đồng bào Huế đành phải nuốt ngược vào lòng.

Ăn ngang, nói ngược, “một lời nói là một đọi (bát) máu” như một thành ngữ của Huế, liệu cái chế độ vừa tàn ác vừa gian trá ấy còn sống bao lâu nữa giữa những lời nguyền rủa của người sống và nỗi oan khuất của người chết.

Hãy nghe bốn câu thơ này của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

“Những chiều Bến Ngự giăng mưa

Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi

Tôi ra mở cửa đón người

Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang!

(Ðịa Chỉ Buồn)

Còn ai đó nữa, nếu không là những linh hồn oan khuất của Huế Mậu Thân đang kêu gào đòi nợ máu!

(Người Việt)

Cuốn "Những mẩu chuyện..." của Trần Dân Tiên làm thay đổi cuộc đời của ông Dương Trung Quốc

04:31 |
Ông Dương Trung Quốc
Tôi có một lý lịch nghề nghiệp rất đơn giản: sinh ra, lớn lên, đi học, thi học sinh giỏi môn sử phổ thông rồi tốt nghiệp khoa sử Đại học Tổng hợp Hà Nội, về Viện Sử học công tác cho đến khi về hưu vẫn tiếp tục hoạt động trong một hội nghề nghiệp của giới sử học và làm một tờ báo của Hội Sử. Có hơn một thập kỷ làm đại biểu Quốc hội thì ngẫm kỹ điều mình thể hiện trên diễn trường ấy cũng luôn là những vấn đề có liên quan đến lịch sử, lấy chuyện xưa vận vào chuyện nay, tựa như người nhắc vở vậy.

Với người làm nghề sử thì việc đọc sách là chuyện đương nhiên, như nông dân cày cấy, thợ may cắt vải nên khó chọn được một cuốn sách nào lại đủ sức “làm thay đổi cuộc đời” của mình. Nhưng ngẫm nghĩ kỹ có thể nhắc tới một cuốn sách dường như nó đã “bẻ ghi” khiến đời mình nghiêng về cái ngả đường mà đến thời điểm đã U-70 rồi thì có thể nói được rằng sẽ theo nghiệp nghề ấy đến lúc xuống... mồ.

Cú hích vào nghề

"Sau này, ngày càng có nhiều sách viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch vẫn được coi là cuốn sách sớm nhất, được tin cậy nhất và sách này luôn được tham khảo như một nguồn tư liệu gốc"
Tôi đến với nghề sử rất ngẫu nhiên, không hề có một hứng thú hay năng khiếu gì đặc biệt đối với cái môn dễ là khổ sai trí nhớ ấy. Đến lớp 10 niên khóa 1963-1964, Hà Nội tổ chức thi học sinh giỏi môn lịch sử. Chẳng biết vì sao cô giáo dạy sử lại chọn tôi với câu động viên: “Cô thấy em đi thi được đấy!”. Có lẽ vì nể trọng cô giáo mà tôi nhận lời. 

Chuẩn bị cho cuộc thi, cô giáo hướng dẫn: ngoài sách giáo khoa, nên tìm đến một người nào đó am hiểu lĩnh vực này để hỏi han thêm. Lớp tôi có một anh bạn có bố làm ở Viện Sử học. Tôi đến xin được ông chỉ giáo. Ông đưa cho tôi mấy số tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử bảo mang về nhà đọc thử một vài bài, rồi hẹn gặp lại để ông hướng dẫn. Trước lúc về tôi thấy trên bàn của ông có một cuốn sách không dày. Tôi vừa động tay vào thì nhà sử học đầu tiên mà tôi được gặp trong đời bảo: “Cuốn ấy không phải là sử đâu cháu ơi. À, nhưng đọc được lắm...”.
Đó là cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên. Về nhà, đọc các bài tạp chí thấy dài lằng nhằng càng đọc càng khó hiểu nên tôi chuyển sang cuốn sách và đọc một mạch từ trang đầu đến trang cuối. Hồi đó Bác Hồ còn sống, một đôi lần tôi được gặp, sách vở viết về Bác chưa nhiều như bây giờ nhưng hình tượng của con người còn sống ấy đã là thiêng liêng lắm. Cuốn sách ấy không thể nói là đã “làm thay đổi cuộc đời tôi”, song đã tạo một cái hích nhẹ và hướng tôi bước vào ngả đường nghề nghiệp mà vào thời điểm đó tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Cuốn sách “không phải là sử” ấy thật sự gây ấn tượng với tôi.
Cuốn Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch chắc nhiều người đã đọc vì từ khi được xuất bản lần đầu vào cuối thập kỷ 1940 đến nay đã qua gần bảy thập kỷ, đã được nhiều nhà xuất bản tái bản rất nhiều lần. Thông qua lời kể của một nhà báo có bút danh Trần Dân Tiên, người đã được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những ngày đầu nước nhà độc lập (1945), cuộc đời của nhà cách mạng và là người đứng đầu nhà nước Việt Nam độc lập được kể lại qua “những mẩu chuyện” như tên gọi của sách. Mục đích sách ra đời vào thời điểm đó dường như chỉ để trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh là ai?”, kể cả với những người nước ngoài.
Sau này, khi đã thâm niên trong nghề nghiệp, tôi có nhiều cơ hội đọc và gặp nhiều người nước ngoài, có người thuần túy là nhà nghiên cứu, có người là nhân chứng lịch sử, cũng có người là cả hai. Tôi đã nghe và đọc được rất nhiều cách tiếp cận, cách đánh giá khác nhau về cuốn sách này và nhân vật của sách...
Đam mê tìm kiếm sự thật
Hồi Liên Xô “mới đổ”, tôi là một trong những người Việt Nam sớm “mò đến” Lưu trữ cũ của Quốc tế Cộng sản ở thủ đô nước Nga để khai thác tài liệu về Hồ Chí Minh. Tôi được biết cách đó không lâu có một phụ nữ quốc tịch Mỹ cũng đã đến đây và cũng có mối quan tâm đến nhân vật lịch sử này. Rồi các đồng nghiệp Nga cho biết người phụ nữ ấy đã “lần mò” đến tận Leningrad để tìm kiếm những chi tiết liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh trong thời gian ở Liên Xô (cũ). Người phụ nữ ấy tên Sophie Quinn Judge.
Bẵng đi một thời gian tôi gặp bà ở Aix en Provence, nơi có một trung tâm lưu trữ quan trọng của Bộ Thuộc địa Pháp, ở đó có nhiều tư liệu liên quan đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nhưng nếu người ta chỉ quan tâm đến học thuyết hay sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh thì bà lại muốn tìm hiểu đời sống riêng tư, một phần không thể thiếu được nếu muốn tiếp cận một chính khách cũng như một nghệ sĩ. Theo bà, thật đáng tiếc chưa mấy ai quan tâm đến điều đó vì thế bà sẽ cố gắng lấp chỗ trống này.
Hồi đó bà mới chỉ đưa ra nhận xét bước đầu là càng nghiên cứu càng thấy nhân vật này có nhiều điều hấp dẫn. Vài năm sau Sophie Quinn Judge cho xuất bản ở Singapore một luận văn nghiên cứu về Hồ Chí Minh trong quãng thời gian ở châu Âu 1919-1940. Bà có gặp để trao đổi và gửi bản thảo cho tôi đọc trước. Cuốn sách của bà có thể có sự đánh giá khác nhau từ những người có quan niệm khác nhau, nhưng giữa những dòng chữ có thể thấy được thiện chí của một người muốn thỏa mãn đi tìm sự thật, công việc của một người làm sử.
Nhân dịp 110 năm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một nhóm làm phim đến phỏng vấn Sophie, bà vẫn nhắc lại cái điều bà từng nói với tôi khi mới bắt tay vào viết sách: “Lúc đầu tôi đã nghĩ rằng Hồ Chí Minh không tuyệt vời và thú vị như hình ảnh mọi người vẫn tuyên truyền, nhưng hóa ra ông ấy thật sự thú vị... Con người thật của Hồ Chí Minh rất thú vị”.
Cuốn sách nhỏ mà tôi nhắc đến trong bài viết này thật sự đã “dẫn tôi vào đời” nghề nghiệp để hướng tới cái khao khát muốn tìm ra những gương mặt thật đã tạo nên một lịch sử thật. Thỏa mãn cái khao khát ấy thật là khó, có khi cả đời nghề chưa làm được là bao nhưng lại vô cùng hấp dẫn. Nghiệm lại đời mình thấy cái làm được trong nghề không nhiều nhưng niềm say mê khiến mình đã theo nghiệp nghề này trọn đời lại làm mình thỏa mãn.

Xuân 2013

Dương Trung Quốc

(Tuổi trẻ)